Người Ta Ôi - Ảnh: news.phanvien.com
Trăng chính là chiếc đồng hồ vĩ đại mà tạo hoá đã ban tặng. Từng bước chuyển của trăng sẽ làm biến đổi các sự vật hiện tượng khác. Hướng chuyển động của trăng thường theo chiều: khuyết - tròn - khuyết - khuất. Kết thúc một chu kỳ như thế tương ứng với một tháng trong năm.
Lịch tháng của người Ta Ôi chỉ có tháng đủ ngày và tháng thiếu ngày chứ không có tháng nhuận như của người Việt. Khi “nhil” (tối như mực) không xuất hiện thì tháng đó chỉ có 29 ngày. Bước chuyển tiếp từ ngày cuối của tháng trước đến ngày đầu của tháng sau được xác định qua “ntrok” (vệt dài nhỏ). Đó là một hình dạng tựa dấu vết của trăng trên không trung thăm thẳm. Chính dựa vào hình dạng khác nhau của trăng trên không trong từng tháng như vậy mà người Ta Ôi hoạch định thời điểm trồng trỉa các loại cây trồng cho phù hợp đưa lại năng suất cao. 2.2. Các tháng trong năm của người Ta Ôi được tính theo hai cách: Thứ nhất, dựa vào lịch sử của hai loại giống cây lương thực chủ yếu: ngô và lúa. Cây ngô bắt đầu trỉa từ tháng 01 và thu hoạch vào tháng 4. Khoảng thời gian từ tháng 01 đến tháng 4 được người Ta Ôi gọi là mùa ngô. Cây lúa bắt đầu gieo trỉa vào tháng 5 và thu hoạch vào tháng 10. Nên người ta gọi khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 10 là mùa lúa. Như vậy, tính theo thời vụ, thời gian năm của người Ta Ôi có mười tháng trong một năm. Hễ thấy ngô non mơn mởn ta biết là cuối tháng 01, ngô trổ đòng kết trái biết là tháng 02, tháng 3 và bắp ngô tươi chất đầy kho, đầy nhà biết đang bước vào tháng 4. Các tấm rẫy mới đã được dọn sạch thực bì, sẵn sàng đón nhận các hạt giống lúa vào lòng đất là tháng 4 đã qua, tháng 5 đang đến. Cuối tháng 6 là lúc người dân nghỉ làm nương rẫy chuyển sang săn thú, hai quả trong rừng núi, bắt cá mò cua tôm dưới suối sông. Tháng 7 và tháng 8 họ bước vào làm cỏ mùa để giúp cho cây lúa lên xanh tươi đủ sức cho ra những bông lúa dài dé và mẩy hạt. Tháng 9 họ lại chờ cho lúa già bông và chín chắc hạt. Tháng 10 là lúc cả làng lên rẫy nương cùng nhau tuốt hàng trăm cà rìa lúa bỏ vào gùi, gùi hàng chục gùi về kho thóc và về nhà để chuẩn bị cho những công việc cần thiết cho thời gian tiếp theo. Các hộ gia đình người Ta Ôi đều đồng loạt thực hiện các công việc liên quan đến lao động sản xuất của cộng đồng để phù hợp với tính thời vụ mà tổ tiên đã đúc rút và truyền đạt. Tính đồng loạt này cũng là cơ sở khẳng định sự tồn tại của thời gian trong cuộc sống của người Ta Ôi. Thứ hai, dựa vào thời tiết. Sự thay đổi của thời tiết cùng với sự chuyển đổi của mọi sự vật hiện tượng tương ứng đã giúp người Ta Ôi làm cơ sở nhận diện thời gian. Trong đó sự xuất hiện của bốn yếu tố sau là quan trọng nhất. Đó là pir (hoa), atooq (nóng), tưm/yur pang (mát/rụng lá), a- oot (lạnh). Bốn yếu tố trên xuất hiện mang tính giai đoạn và nối tiếp liên tục theo thứ tự đã nêu. Chính vì vậy, người Ta Ôi tính một năm có bốn mùa như sau: nno pir/nhnhom (mùa xuân, tiếng Pakô là nno piar) được tính từ tháng 1 đến tháng 3, nno atooq (mùa hè) từ tháng 4 đến tháng 6, nno tưm/yur pang (mùa thu, tiếng Pakô là nno uk) từ tháng 7 đến tháng 9 và nno a- oot (mùa đông, tiếng Pakô nno alsăm) là tháng mười. Tháng mười của người Ta Ôi dài gấp ba so với các tháng khác. Khi nào trăm hoa rừng hé nở, cây cối đâm chồi nẩy lộc, chim muông ca hát thì kết thúc mùa đông. 2.3. Dựa vào sự chuyển động của mặt trời để chỉ các giờ trong ngày Ngày là đơn vị thời gian được tri nhận rõ nhất qua cách gọi tên đúng quy luật chuyển động của mặt trời. Giờ của người Ta Ôi cũng chỉ được quy định chung chung qua việc quan sát sự chuyển động của mặt trời trong một ngày. Người Ta Ôi thường lấy bóng của mái nhà hoặc của cây cối và có khi là bóng của chính con người được ánh sáng mặt trời chiếu xuống để tính thời gian trong một ngày. Người Ta Ôi ước lượng đơn vị thời gian ngày như sau:
Riêng việc tính thời gian từ 1 giờ sáng đến 5 giờ sáng thì người Ta Ôi lại dựa vào tiếng gáy, đợt gáy của gà trống nhà. Nếu gà trống gáy lần một với một hơi dài là 1 giờ; lần hai, hai hơi khá dài là 2 giờ sáng; lần ba có ba hơi nhưng mỗi hơi ngắn hơn so với mỗi hơi của lần hai thì đã đến 3 giờ; lần bốn cũng bốn hơi ngắn hơn lần ba và lần thứ năm, gà gáy năm hơi liên tục, hơi ngắn và thúc giục báo hiệu thời gian 5 giờ đã đến. Như thế, người Ta Ôi cũng có các đơn vị ngôn ngữ chỉ giờ trong một ngày, cụ thể là từ 1 giờ đến 18 giờ. Còn khoảng thời gian từ 19 đến 24 giờ không được đưa vào quỹ thời gian của người Ta Ôi. Vì sao như vậy, chúng tôi cũng chưa lý giải được. Có lẽ tổ tiên của người Ta Ôi đã có các từ ngữ tương đương để gọi tên khoảng thời gian mà chúng tôi chưa đủ điều kiện đi tìm cái lý tồn tại của chúng. Biết đâu được ngoài việc dựa vào mặt trời để tính thời gian ban ngày, vào tiếng gà gáy để tính giờ sáng sớm/đầu hôm, còn dựa vào hiện tượng tự nhiên khác như khí trời, sương, gió, trăng sao để bù vào khoảng hẫng hụt trên?! Bên cạnh đơn vị ngày nguyên thuỷ như thế, người Ta Ôi hiện đại còn vay mượn cách tính ngày của người Việt hiện đại nhưng được phiên âm sang tiếng của chính họ theo kiểu: ngày mồng một (01) ở tiếng Việt, là ingăi mi ở tiếng Ta Ôi và ingăi mooi ở tiếng Pakô; ngày mười lăm (15) ở tiếng Việt, là ingăi michât sông ở tiếng Ta Ôi và ingăi muchi’t sông ở tiếng Pakô. Cứ thế tương tự cho đến ngày ba mươi. 3. Đối ứng thời gian làm nông. Theo người Ta Ôi xưa, khoảng thời gian trồng trỉa lúa và ngô cũng như các loại giống cây lương thực hoa màu khác tốt nhất là vào các ngày từ 22 đến 25. Trỉa đúng vào khoảng thời gian đó, lúa ngô sẽ cho chắc đầy hạt, ngô to bẹ, lúa dài dé. Ngày 29 cũng là ngày trồng trỉa nhưng không tốt bằng. Riêng các ngày từ 14 đến 16, nếu được trồng chuối sẽ cho hiệu quả cao, chuối sẽ được dài buồng to quả. Ngày mồng 01 và 02 chỉ phù hợp với một loại giống cây lương thực được trồng là sắn. Ngô cũng có thể trồng vào những ngày này nhưng không được tốt. Trong việc chọn ngày trồng trỉa, bà con Ta Ôi đặc biệt chú ý và tránh gieo trồng vào các ngày 20 và 21. Vì đó là những ngày sinh sôi của các loại sâu bọ phá hoại mùa màng, của mọi thú rừng làm hại đến cây trồng, vật nuôi. Sự chọn lựa thời điểm gieo, trồng, trỉa trong những tháng thích hợp cho từng công việc là vậy. Còn các tháng trong năm được cộng đồng Ta Ôi áp dụng vào lao động sản xuất như thế nào? Điều này sẽ được trình bày ở một công trình nghiên cứu khác. Người Ta Ôi thường sử dụng các cơ quan giác quan, tiêu biểu là thị giác và thính giác để nhận biết bước đi của thời gian nhằm áp dụng phù hợp, kịp thời và hiệu quả các thời điểm vào lao động sản xuất nông nghiệp nương rẫy của mình. Dùng mắt để quan sát sự xuất của trăng, sao, muôn hoa, cây lá và cả khí trời, dùng tai để nghe thanh âm của chim muông réo gọi. Ngày nay, các dân tộc thiểu số của TT Huế nói chung và dân tộc Ta Ôi nói riêng đã vay mượn nguyên bản các đơn vị ngôn ngữ chỉ thời gian của tiếng Việt để sử dụng trong hoạt động giao tiếp thường nhật của họ trên mọi lĩnh vực. Người bản địa các thế hệ từ 7x (thậm chí 6x) trở về sau, hầu như không còn nhớ cách tính thời gian truyền thống của dân tộc mình. Bài nghiên cứu này, mong đóng góp một phần trách nhiệm ghi nhớ một trong số giá trị văn hóa của một tộc người trong cộng đồng dân tộc Việt Nam ta. N.T.S (250/12-09) ---------------- (1) Tiếng Ta Ôi và Pakô là hai phương ngữ của một ngôn ngữ, một dân tộc là Ta Ôi. Tuy nhiên, bên cạnh tiếng Ta Ôi thì tiếng Pakô được xem là tiếng phổ thông vùng đồng bào Trường Sơn, nằm phía Tây của Thừa Thiên Huế nên người nghiên cứu sử dụng cả hai phương ngữ để tiện tiếp cận và tham khảo. Nghĩa và ý nghĩa từ các tên gọi chỉ thời gian (tuy không đồng âm) nêu lên ở cả hai phương ngữ đều như nhau.
|
NGÔ MINH Kỷ niệm 50 năm Đường Hồ Chí Minh trên biển (23/10/1961 - 23/10/2011)
NGUYỄN QUANG HÀ Kỷ niệm 20 năm thành lập đặc khu Côn Đảo (8.1991 - 8.2011) Thế hệ chúng tôi, thời tuổi trẻ, ai mà chẳng thuộc bài hát ca ngợi chị Võ Thị Sáu: “Mùa hoa Lêkima nở, ở quê ta miền Đất Đỏ, thôn xóm vẫn nhắc tên người anh hùng đã chết cho đời sau...”.
NGÔ VĂN MINH Bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ là công việc quan trọng nhất của mỗi quốc gia. Triều Nguyễn sau khi đã mở mang, hợp nhất địa giới hành chính trong toàn lãnh thổ đã có những quy định về việc bảo vệ chủ quyền, tránh các thế lực bên ngoài dòm ngó, trong đó đặc biệt chú trọng đến việc bảo vệ chủ quyền đường biên giới và đường biển.
LÊ THỊ BÍCH HỒNG Ghi chép Đến hẹn lại lên cứ đến ngày 27/3 (âm lịch) hàng năm, mảnh đất Mèo Vạc - nơi “phên dậu” của Tổ quốc lại rạo rực không khí đón Lễ hội chợ tình Khâu Vai - phiên chợ tình nổi tiếng có một không hai ở nước ta, thậm chí còn độc đáo và hiếm có trên thế giới, mà từ lâu đã trở thành huyền thoại.
NGUYỄN MINH CHÂU Trong đời viết văn của tôi, các tác phẩm chính về truyện ngắn và tiểu thuyết đều viết về vùng đất Bình Trị Thiên.
NGUYỄN HOÀNG YẾNChiếc xe khách chạy chậm dần. Âm giọng đặt sệt miền Nam của gã phụ xe chợt vang lên “Đến ngã ba MaDaGui rồi… có ai xuống không” Kiểu nói oang oang của gã kèm với tiếng thắng xe rít nhè nhẹ đánh thức tôi ra khỏi vùng ký ức mơ hồ vừa nồng nàn ấm áp vừa gian khổ chua cay.
XUÂN ĐỨCLàng tôi cách thị trấn Hồ Xá không xa, người lớn đi bộ gần một giờ, còn trẻ con thì đủ sức níu lấy gióng mẹ mà chạy lon ton từ nhà lên chợ huyện.
KÊ SỬUGiá trị văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử - văn hóa, khoa học, thẩm mỹ được lưu truyền bằng miệng, truyền nghề trình diễn và các hình thức lưu giữ khác.
NGÔ THIÊN THUPhước Yên một thời là thủ phủ của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, con thứ sáu của Nguyễn Hoàng. Sau khi lên ngôi chúa ông cải tổ lại mọi công việc và được dân gọi là chúa Sãi. Sau khi Nguyễn Hoàng mất vào năm 1613, theo lời di huấn, ông ra sức củng cố sức mạnh cho mình bằng cách hoàn thiện bộ máy hành chính và quân sự... Năm 1626 ông dời phủ từ Dinh Cát vào đất Phước Yên để lập phủ mới. Mục đích chính cho việc chuyển phủ vào đây là để chuẩn bị thực lực chống quân Trịnh lâu dài.
NGUYỄN THAM THIỆN KẾDo xê dịch ngẫu nhiên của số phận, tuổi thơ tôi lớn lên ở mường Cự Thắng, châu Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.
VI THÙY LINHÔ tô xanh chạy triền đê thở cùng những đợt hôn ngạt thở. Không phải Hollywood mà hơn cả Hollywood, khi mỗi nhịp vô - lăng là một scène cuồng say nơi miền không chạm đất nơi miền không lên trời. Sông Thao đang chảy trong tình yêu của tôi.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌC(Kỷ niệm 60 năm thành lập Hội Liên Hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế)Dọc một thời trai trẻ của những năm chín mươi, khi ấy đất nước bắt đầu đổi mới, tôi đi gần như khắp các làng quê xứ Huế từ biển khơi, đầm phá đến thẳm sâu rừng núi đại ngàn.
KÊ SỬU1. Đặc điểm đời sống của dân tộc Ta ôi
HIỀN QUANGCâu chuyện của tôi về vùng núi ven đường số 9, ngay trên thung lũng Khe Sanh lịch sử này chỉ xoay quanh con cá và cây cà phê trong hướng đi lên của hợp tác xã Tân Độ.
NGUYỄN VĂN VINHCuối năm 1953, Pháp thực hiện kế hoạch Na-Va, chúng tổ chức nhiều cuộc càn quét có quy mô đánh sâu vào vùng hậu cứ nước ta. Quân dân ta đánh trả quyết liệt. Pháp thua to, dẫn đến ngày 7 tháng 5 năm 1954, toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, vị trí chiến lược quan trọng vào bậc nhất của giặc Pháp bị tiêu diệt.
HÀ LẬP NHÂNLần đầu tiên người Việt phát hiện ra những điều sâu kín nhất trong chính tâm hồn mình. Đó là tích truyện An Dương Vương quay lại chém chết con gái Mỵ Châu yêu quí của Người sau khi kinh đô Cổ Loa thất thủ. Vì vậy cho dù bản thân An Dương Vương không phải là một nhà tư tưởng, nhưng tích truyện về ông thì lại có một tầm tư tưởng thật sâu sắc.
NGUYỄN HỮU SƠN1. Trong trường kỳ lịch sử Việt Nam, danh nhân thiền sư Từ Đạo Hạnh (?- 1117) là một trong những hiện tượng văn hóa chứa đựng nhiều điều nghịch lý:
PHONG LÊTrên các chuyến tàu xuyên Việt, từ Hà Nội vào thành phố Hồ Chí Minh tôi thường xiết bao bồi hồi khi qua mảnh đất miền Trung quê tôi - xứ nghèo Nghệ Tĩnh, khô khát nắng hạn và gió Lào.
NGUYỄN KHẮC PHÊGọi là “một ngày”, nhưng có nhiều cách tính. Thông thường, đó là quãng thời gian từ sáng đến tối; với các công chức thì chỉ gọn trong “8 giờ vàng ngọc”.
TRẦN HOÀI... Chiều nay ra đứng trông về, bên ven bờ Hiền Lương mây lặng lờ trôi... Phải, đến bây giờ, sau hơn 40 năm kể từ ngày nhạc sỹ Hoàng Hiệp ôm cây đàn mãng- đô- lin hát bài hát đầu tay của mình mới sáng tác "Câu hò bên bến Hiền Lương" nổi tiếng, mây vẫn lặng lờ trôi.