Cách tính thời gian của người Ta Ôi xưa

09:04 31/12/2009
NGUYỄN THỊ SỬU1. Thời gian là thước đo sự tồn tại của vạn vật trong vũ trụ bao la. Vạn vật luôn chuyển động và biến đổi không ngừng theo thời gian. Với người Ta Ôi, thời gian được tri nhận rõ nhất qua sự chuyển động và biến đổi của con trăng.

Người Ta Ôi - Ảnh: news.phanvien.com

Trăng chính là chiếc đồng hồ vĩ đại mà tạo hoá đã ban tặng. Từng bước chuyển của trăng sẽ làm biến đổi các sự vật hiện tượng khác. Hướng chuyển động của trăng thường theo chiều: khuyết - tròn - khuyết - khuất. Kết thúc một chu kỳ như thế tương ứng với một tháng trong năm.

Hầu như, người Ta Ôi làm bất cứ việc gì để phục vụ cuộc sống, kể cả trong cuộc sống vật chất và tinh thần, đều dựa vào trăng. Chính vì điều này phần nào có thể lý giải vì sao người Ta Ôi ái chuộng hình tròn hay hình vòng cung trong thiết kế, xây dựng các mô hình, kiến trúc biểu tượng cho cuộc sống. Hình tròn và hình vòng cung hiện lên bàng bạc ở mô hình làng, mái nhà các loại, dụng cụ lao động sản xuất, các vật trang sức, các nét hoa văn trên trang phục hoặc trên nhà Rông, các hình xăm trên người, cách cưa răng căng tai... và kể cả khai thác sản vật tự nhiên như rượu pardin, tuvak...

Bên cạnh mặt trăng, mặt trời cũng là một đơn vị thời gian giúp người Ta Ôi nhận diện các giờ trong một ngày. Ngoài ra, các sự vật hiện tượng tự nhiên với sự biến đổi của chúng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giúp người Ta Ôi nhận biết bước đi của thời gian. Đặc biệt là khi tính thời vụ.

2. Chính mặt trăng và mặt trời cùng sự chuyển động của chúng làm nên các đơn vị thời gian trong con mắt của người Ta Ôi và họ đã gọi tín các hình dạng nhìn thấy theo cách của mình.  

2.1. Khi dựa vào sự chuyển động của mặt trăng, người Ta Ôi(1) để tính các ngày trong tháng như sau:


Các  

Tiếng dân tộc thiểu số

Tiếng Việt
ngày Tiếng Ta Ôi Tiếng Pakô Nghĩa  
01 karư kaler “hườm” (đỏ) mồng một
02 takkoi lo’h takoi ngô’h “nhú sừng” mồng hai
03 Ilău lo’h tôm Ilău ngô’h tôm “bắp chân căng lần đầu” mồng ba
04 Ilău lo’h tu Ilău ngô’h tua “bắp chân căng lần cuối” mồng bốn
05 kalang lo’h tôm kalang ngô’h tôm “cánh diều lên lần đầu” mồng năm
06 kalang lo’h tu kalang ngô’h tua “cánh diều lên lần cuối” mồng sáu
07 pâng lo’h tôm tưng ngô’h tôm “chính giữa hiện lần đầu” mồng bảy
08 pâng lo’h tu  tưng ngô’h tua “chính giữa hiện lần cuối”  mồng tám
09  parnung lo’h tôm pannoang ngô’h tôm  “bánh phồng lên lần đầu”  mồng chín
10  parnung lo’h tu pannoang ngô’h tua  “bánh phồng lên lần cuối”  mồng mười 
11  kammooch lo’h tôm kumuiq ngô’h tôm  “linh hồn người chết hiện lần đầu”  mười một 
12  kammooch lo’h tu  kumuiq ngô’h tua  “linh hồn người chết hiện lần cuối”  mười hai 
13  traleang lo’h  traleang ngô’h  “cái sập cửa hiện ra”  mười ba 
14  karlooi  Truq “cái đèo theo sau”   mười bốn 
15  trakoal trakoal “cái gối”  mười lăm 
16  trabrang  traklang  “sự neo đậu”  mười sáu 
17  traleang păt  traleang păt  “cái sập cửa biến dần”  mười bảy 
18  parnung păt tôm  pannoang păt tôm  “bánh phồng xẹp lần đầu”  mười tám 
19  parnung păt tu pannoang păt tua  “bánh phồng xẹp lần cuối”  mười chín 
20  pâng păt tôm  tưng păt tôm  “chính giữa ẩn lần đầu”  hai mươi 
21  pâng păt tu tưng păt tua  “chính giữa ẩn lần cuối”  hâm mốt 
22  kammooch păt tôm  kumuiq păt tôm  “linh hồn người chết ẩn lần đầu”  hâm hai 
23  kammooch păt tu  kumuiq păt tua  “linh hồn người chết ẩn lần cuối”  hâm ba 
24  kalang păt tôm  kalang păt tôm  “cánh diều xuống lần đầu”  hâm bốn 
25  kalang păt tu  kalang păt tua  “cánh diều xuống lần cuối”  hâm lăm 
26  Ilău păt tôm  Ilău păt tôm  “bắp chân xẹp lần đầu”  hâm sáu 
27  Ilău păt tu  Ilău păt tua  “bắp chân xẹp lần cuối”  hâm bảy 
28  takkoi păt  takoi păt  “lụi sừng”  hâm tám 
29  ntrok  tayel  “vệt dài nhỏ”  hâm chín 
30  nhil  Nhil  “tối như mực”  ba mươi 
                                

Lịch tháng của người Ta Ôi chỉ có tháng đủ ngày và tháng thiếu ngày chứ không có tháng nhuận như của người Việt. Khi “nhil” (tối như mực) không xuất hiện thì tháng đó chỉ có 29 ngày. Bước chuyển tiếp từ ngày cuối của tháng trước đến ngày đầu của tháng sau được xác định qua “ntrok” (vệt dài nhỏ). Đó là một hình dạng tựa dấu vết của trăng trên không trung thăm thẳm. Chính dựa vào hình dạng khác nhau của trăng trên không trong từng tháng như vậy mà người Ta Ôi hoạch định thời điểm trồng trỉa các loại cây trồng cho phù hợp đưa lại năng suất cao.

2.2. Các tháng trong năm của người Ta Ôi được tính theo hai cách:

Thứ nhất,
dựa vào lịch sử của hai loại giống cây lương thực chủ yếu: ngô và lúa. Cây ngô bắt đầu trỉa từ tháng 01 và thu hoạch vào tháng 4. Khoảng thời gian từ tháng 01 đến tháng 4 được người Ta Ôi gọi là mùa ngô. Cây lúa bắt đầu gieo trỉa vào tháng 5 và thu hoạch vào tháng 10. Nên người ta gọi khoảng thời gian từ tháng 5 đến tháng 10 là mùa lúa.

Như vậy, tính theo thời vụ, thời gian năm của người Ta Ôi có mười tháng trong một năm. Hễ thấy ngô non mơn mởn ta biết là cuối tháng 01, ngô trổ đòng kết trái biết là tháng 02, tháng 3 và bắp ngô tươi chất đầy kho, đầy nhà biết đang bước vào tháng 4. Các tấm rẫy mới đã được dọn sạch thực bì, sẵn sàng đón nhận các hạt giống lúa vào lòng đất là tháng 4 đã qua, tháng 5 đang đến. Cuối tháng 6 là lúc người dân nghỉ làm nương rẫy chuyển sang săn thú, hai quả trong rừng núi, bắt cá mò cua tôm dưới suối sông. Tháng 7 và tháng 8 họ bước vào làm cỏ mùa để giúp cho cây lúa lên xanh tươi đủ sức cho ra những bông lúa dài dé và mẩy hạt. Tháng 9 họ lại chờ cho lúa già bông và chín chắc hạt. Tháng 10 là lúc cả làng lên rẫy nương cùng nhau tuốt hàng trăm cà rìa lúa bỏ vào gùi, gùi hàng chục gùi về kho thóc và về nhà để chuẩn bị cho những công việc cần thiết cho thời gian tiếp theo. Các hộ gia đình người Ta Ôi đều đồng loạt thực hiện các công việc liên quan đến lao động sản xuất của cộng đồng để phù hợp với tính thời vụ mà tổ tiên đã đúc rút và truyền đạt. Tính đồng loạt này cũng là cơ sở khẳng định sự tồn tại của thời gian trong cuộc sống của người Ta Ôi.

Thứ hai, dựa vào thời tiết. Sự thay đổi của thời tiết cùng với sự chuyển đổi của mọi sự vật hiện tượng tương ứng đã giúp người Ta Ôi làm cơ sở nhận diện thời gian. Trong đó sự xuất hiện của bốn yếu tố sau là quan trọng nhất. Đó là pir (hoa), atooq (nóng), tưm/yur pang (mát/rụng lá), a- oot (lạnh). Bốn yếu tố trên xuất hiện mang tính giai đoạn và nối tiếp liên tục theo thứ tự đã nêu.

Chính vì vậy, người Ta Ôi tính một năm có bốn mùa như sau: nno pir/nhnhom (mùa xuân, tiếng Pakô là nno piar) được tính từ tháng 1 đến tháng 3, nno atooq (mùa hè) từ tháng 4 đến tháng 6, nno tưm/yur pang (mùa thu, tiếng Pakô là nno uk) từ tháng 7 đến tháng 9 và nno a- oot (mùa đông, tiếng Pakô nno alsăm) là tháng mười. Tháng mười của người Ta Ôi dài gấp ba so với các tháng khác. Khi nào trăm hoa rừng hé nở, cây cối đâm chồi nẩy lộc, chim muông ca hát thì kết thúc mùa đông.

2.3. Dựa vào sự chuyển động của mặt trời để chỉ các giờ trong ngày

Ngày là đơn vị thời gian được tri nhận rõ nhất qua cách gọi tên đúng quy luật chuyển động của mặt trời.
Giờ của người Ta Ôi cũng chỉ được quy định chung chung qua việc quan sát sự chuyển động của mặt trời trong một ngày. Người Ta Ôi thường lấy bóng của mái nhà hoặc của cây cối và có khi là bóng của chính con người được ánh sáng mặt trời chiếu xuống để tính thời gian trong một ngày.

Người Ta Ôi ước lượng đơn vị thời gian ngày như sau:


Tiếng Ta Ôi Tiếng Pakô Nghĩa Khoảng thời gian
Lo’h măt ngô’h măt mặt trời mọc khoảng 6 - 7 giờ
yur măt/chăh klaq yoor măt mặt trời lên khoảng 8 - 9 giờ
kring măt pitưng măt già bóng (mặt trời) khoảng 10 - 11 giờ
tâng măt tưng măt đứng bóng (mặt trời) khoảng 12 giờ
vis măt Vih măt ngoảnh mặt (mặt trời) khoảng 13 - 14 giờ
a-êng măt rarong măt nghiêng mặt (mặt trời) khoảng 15 - 16 giờ
atooq kachăng kooh puaq kachăng koo’h nắng cười với núi khoảng 17 giờ chiều
looi măt ploot măt mặt trời lặn khoảng 18 giờ tối


Riêng việc tính thời gian từ 1 giờ sáng đến 5 giờ sáng thì người Ta Ôi lại dựa vào tiếng gáy, đợt gáy của gà trống nhà. Nếu gà trống gáy lần một với một hơi dài là 1 giờ; lần hai, hai hơi khá dài là 2 giờ sáng; lần ba có ba hơi nhưng mỗi hơi ngắn hơn so với mỗi hơi của lần hai thì đã đến 3 giờ; lần bốn cũng bốn hơi ngắn hơn lần ba và lần thứ năm, gà gáy năm hơi liên tục, hơi ngắn và thúc giục báo hiệu thời gian 5 giờ đã đến.

Như thế, người Ta Ôi cũng có các đơn vị ngôn ngữ chỉ giờ trong một ngày, cụ thể là từ 1 giờ đến 18 giờ. Còn khoảng thời gian từ 19 đến 24 giờ không được đưa vào quỹ thời gian của người Ta Ôi. Vì sao như vậy, chúng tôi cũng chưa lý giải được. Có lẽ tổ tiên của người Ta Ôi đã có các từ ngữ tương đương để gọi tên khoảng thời gian mà chúng tôi chưa đủ điều kiện đi tìm cái lý tồn tại của chúng. Biết đâu được ngoài việc dựa vào mặt trời để tính thời gian ban ngày, vào tiếng gà gáy để tính giờ sáng sớm/đầu hôm, còn dựa vào hiện tượng tự nhiên khác như khí trời, sương, gió, trăng sao để bù vào khoảng hẫng hụt trên?!

Bên cạnh đơn vị ngày nguyên thuỷ như thế, người Ta Ôi hiện đại còn vay mượn cách tính ngày của người Việt hiện đại nhưng được phiên âm sang tiếng của chính họ theo kiểu: ngày mồng một (01) ở tiếng Việt, là ingăi mi ở tiếng Ta Ôi và ingăi mooi ở tiếng Pakô; ngày mười lăm (15) ở tiếng Việt, là ingăi michât sông ở tiếng Ta Ôi và ingăi muchi’t sông ở tiếng Pakô. Cứ thế tương tự cho đến ngày ba mươi.

3. Đối ứng thời gian làm nông. Theo người Ta Ôi xưa, khoảng thời gian trồng trỉa lúa và ngô cũng như các loại giống cây lương thực hoa màu khác tốt nhất là vào các ngày từ 22 đến 25. Trỉa đúng vào khoảng thời gian đó, lúa ngô sẽ cho chắc đầy hạt, ngô to bẹ, lúa dài dé. Ngày 29 cũng là ngày trồng trỉa nhưng không tốt bằng. Riêng các ngày từ 14 đến 16, nếu được trồng chuối sẽ cho hiệu quả cao, chuối sẽ được dài buồng to quả. Ngày mồng 01 và 02 chỉ phù hợp với một loại giống cây lương thực được trồng là sắn. Ngô cũng có thể trồng vào những ngày này nhưng không được tốt.

Trong việc chọn ngày trồng trỉa, bà con Ta Ôi đặc biệt chú ý và tránh gieo trồng vào các ngày 20 và 21. Vì đó là những ngày sinh sôi của các loại sâu bọ phá hoại mùa màng, của mọi thú rừng làm hại đến cây trồng, vật nuôi.

Sự chọn lựa thời điểm gieo, trồng, trỉa trong những tháng thích hợp cho từng công việc là vậy. Còn các tháng trong năm được cộng đồng Ta Ôi áp dụng vào lao động sản xuất như thế nào? Điều này sẽ được trình bày ở một công trình nghiên cứu khác.

Người Ta Ôi thường sử dụng các cơ quan giác quan, tiêu biểu là thị giác và thính giác để nhận biết bước đi của thời gian nhằm áp dụng phù hợp, kịp thời và hiệu quả các thời điểm vào lao động sản xuất nông nghiệp nương rẫy của mình. Dùng mắt để quan sát sự xuất của trăng, sao, muôn hoa, cây lá và cả khí trời, dùng tai để nghe thanh âm của chim muông réo gọi.

Ngày nay, các dân tộc thiểu số của TT Huế nói chung và dân tộc Ta Ôi nói riêng đã vay mượn nguyên bản các đơn vị ngôn ngữ chỉ thời gian của tiếng Việt để sử dụng trong hoạt động giao tiếp thường nhật của họ trên mọi lĩnh vực. Người bản địa các thế hệ từ 7x (thậm chí 6x) trở về sau, hầu như không còn nhớ cách tính thời gian truyền thống của dân tộc mình. Bài nghiên cứu này, mong đóng góp một phần trách nhiệm ghi nhớ một trong số giá trị văn hóa của một tộc người trong cộng đồng dân tộc Việt Nam ta.

N.T.S
(250/12-09)


----------------
(1) Tiếng Ta Ôi và Pakô là hai phương ngữ của một ngôn ngữ, một dân tộc là Ta Ôi. Tuy nhiên, bên cạnh tiếng Ta Ôi thì tiếng Pakô được xem là tiếng phổ thông vùng đồng bào Trường Sơn, nằm phía Tây của Thừa Thiên Huế nên người nghiên cứu sử dụng cả hai phương ngữ để tiện tiếp cận và tham khảo. Nghĩa và ý nghĩa từ các tên gọi chỉ thời gian (tuy không đồng âm) nêu lên ở cả hai phương ngữ đều như nhau.




 

 

 

 

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Họ Nguyễn Tiên Điền của Nguyễn Du lừng danh như thế nào thì mọi người đã rõ. Nhưng gia phả họ Nguyễn này ở Tiên Điền thì cũng chỉ cho biết vị tổ khải tổ  là cụ Nguyễn Nhiệm (Nhậm), kế tiếp theo trực hệ là Nguyễn Đức Hành (Phương Trạch hầu) , Nguyễn Ôn, Nguyễn Thế, Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Nghiễm (Xuân Quận công) thân phụ của Nguyễn Du.

  • Văn hóa đình làng từng có một vị trí hết sức quan trọng trong cộng đồng người dân sống ở chốn kinh kỳ Thăng Long - Kẻ Chợ xưa kia. Theo thống kê, ở khu phố cổ hiện nay vẫn còn hơn 60 ngôi đình trong tổng số 112 công trình tôn giáo tín ngưỡng từng có tại đây. Số phận những ngôi đình đó giờ ra sao, trong thời buổi kinh tế “mặt tiền thành tiền mặt”?

  • LÊ THỊ MÂY

    1
    Hơn mười ba năm về trước, kỳ vừa ngưng bom đạn, thường từ sớm chủ nhật, tôi đã về quanh quẩn với phố đổ rậm rì cỏ dại. Nhiều lần đếm đi đếm lại, cũng chỉ còn sót có mười bốn cây dừa, thân bị băm kín miểng bom. Tàn lá xơ xáp, đỏ cháy.

  • PHẠM HỮU THU

    Đầu tháng tư năm nay, tôi mới có dịp trở lại Hải Vân, bởi từ khi có hầm đường bộ, xe cộ ít qua lại con đường đèo quanh co, đầy hiểm nguy nhưng có cảnh quan tuyệt mỹ này.

  • Ngoài một dung lượng văn hóa tộc người đủ thỏa mãn độc giả thì công trình Mọi Kontum(1937) của Nguyễn Kỉnh Chi và Nguyễn Đổng Chi còn là một văn phẩm tạo được sức lôi cuốn, hấp dẫn đặc biệt. Tham luận góp phần lý giải thành công của tác phẩm trên ba phương diện: Lối khảo tả chân phương mà thấu đạt, trí tuệ sắc bén mà vẫn hồn hậu và văn phong ấn tượng.

  • Chỉ 15 năm, như chớp mắt, hàng loạt các công trình hiện đại đã hùng hổ đẩy những biểu tượng cũ của Sài Gòn đi sâu vào trong quá khứ, biến chúng thành những tiểu cảnh.

  • INRASARA

    Khi mẹ la chị Hám: “Mi không biết hôm nay là ngày gì sao mà hốt thóc trong lẫm đi xay”, thì tôi biết ngay đây là ngày trăng hết harei ia bilan abih, ngày người Cham kiêng xuất hàng ra khỏi nhà.

  • Dù có thể không sinh ra trên mảnh đất này nhưng đã là người Việt Nam ai cũng cảm nhận được một Hà Nội của chúng ta từ sông Hồng đỏ nặng phù sa đến Hồ Gươm lung linh truyền thuyết, Văn miếu - Quốc Tử Giám thâm nghiêm... Và cũng xao xuyến nhận ra một cái gì đó rất Hà Nội, của Hà Nội, từ mùa thu se sẽ lâng lâng đến đêm nồng nàn hoa sữa, cơn mưa tìm về phố cổ với màn sương lan nhẹ mặt Hồ Gươm...

  • Chợ Gôi ở xã Sơn Hòa, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh có tự bao giờ? Câu hỏi thật khó và cũng chưa thể có câu trả lời đầy đủ. Mà cái tên nôm “Gôi” còn được dùng  để chỉ địa danh của nhiều nơi khác ở Việt Nam.

  • Vượt chặng đường hơn 50 km về hướng bắc, từ trung tâm thành phố Pleiku - tỉnh Gia Lai chúng tôi tìm đến làng Kon Solal ở xã Hà Tây, huyện Chư Păh - một trong vài ngôi làng nguyên sơ cuối cùng còn lại của đồng bào BaNa.

  • Đó là ngôi làng dưới chân núi Chư Mom Ray nhiều huyền thoại. Điều kỳ lạ là cả đứa trẻ 10 tuổi cũng nói được nhiều thứ tiếng, không chỉ tiếng của dân tộc khác, mà họ còn nói được tiếng Lào, Miên và những đứa trẻ được đi học thì tiếng Anh cũng không phải là ngoại lệ.

  • “Thất bại trước quân Triệu Đà tại Cổ Loa của An Dương Vương dẫn đến 1.000 năm Bắc thuộc là nỗi đau lớn của dân tộc Việt. Nhưng Cổ Loa không chỉ ghi dấu thất bại thiên thu. Mà đó còn là nơi Ngô Quyền chọn làm kinh đô ngay khi đại phá quân Nam Hán năm 938, mở ra thời kỳ độc lập tự chủ của nước việt với triều đình phương Bắc. Và điều này đang bị lãng quên...”.

  • Chùa Tiêu Sơn (thường gọi là chùa Tiêu) - một danh thắng nổi tiếng và cũng là - trung tâm Phật giáo cổ xưa của Việt Nam.

  • Đền Quả Sơn ở Bạch Ngọc nay là xã Bồi Sơn, huyện Đô Lương thờ Lý Nhật Quang. Ngài là con thứ tám của vua Lý Thái Tổ, được phong tước Uy Minh vương. Mùa xuân năm 1902, Nguyễn Sinh Cung  trên nẻo đường theo cha đi dạy học, thăm thú quê hương có đến chiêm bái đền Quả Sơn - một trong bốn ngôi đền linh thiêng nhất của tỉnh Nghệ.

  • Hát ví Sông La (tên gọi một làn điệu ví của Xứ Nghệ; cũng có thể hiểu là điệu ví ở sông La) tham luận này đề cập giới hạn những điệu ví ra đời, tồn tạị, phát triển ở vùng sông La, miền Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.

  • Chùa Nền, phường Láng Thượng, Đống Đa, Hà Nội, được xây dựng từ thời vua Lý Thần Tông (1116–1138), bài trí thờ Phật và song thân của thiền sư Từ Đạo Hạnh là ngài Từ Vinh và bà Tằng Thị Loan.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG

    Những năm cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX, ngành Dân tộc học Việt Nam nói chung và miền Trung Tây Nguyên nói riêng được các nhà khoa học, chính trị, bác sĩ của Pháp tiến hành nghiên cứu và công bố nhiều tác phẩm có giá trị.

  • (SHO) Cứ hễ nhắc tới miền Trung, mỗi người Việt Nam có thể mường tượng ngay ra trong đầu những vùng đất của thiên tai triền miên. Miền đất, nơi mà từ tấm bé cho tới khi lìa đời dường như đều gắn với con chữ nghèo và sớm sương mưa nắng lận đận mưu sinh.

  • (SHO) Vậy là tôi đã ở Miền Tây mênh mang sông nước! Tôi đã đặt chân lên bến Ninh Kiều Cần Thơ và ấp Mũi Cà Mau! Tôi đã đi tàu ca nô trên những con kênh, con lạch mà hai bên bờ mọc đầy những cây đước, cây tràm…

  • Huế xưa – nay, Huế của khúc ruột nước non, chứa đựng trong mình cả một bề dày lịch sử thông qua nét trầm mặc cổ kính của những lăng tẩm, cung điện, chùa chiền… Nhưng có lẽ ít ai biết, Huế vẫn còn ẩn chứa trong mình một A Lưới - vùng đất nổi tiếng với những phong cảnh thiên nhiên kỳ thú và trầm lắng nhiều giá trị văn hoá cổ xưa của cộng đồng các dân tộc thiểu số.