NGUYỄN NGỌC PHÚ
"Giặt lưới" - Ảnh: Nguyễn Hữu Xuân Tâm
Khúc 1
Cánh võng đầu tiên ru tôi
Là mảnh lưới cha tôi cắt ra từ tấm lưới còn dính đầy vảy cá
Trong giấc mơ tôi không có tiếng côn trùng
Tiếng cá quẫy khuấy vào tôi tăm sóng
Cha nhóm lửa lui cui mùi cá nướng
Da thịt tôi bỏng rộp tiếng “xèo”
Và lúc ấy ký ức tôi thành sẹo
Và cát bỏng hóa miềm hoang - tưởng - trắng
Và cái chết của bấy nhiêu con sóng
Dìu tôi đi những bước đầu tiên
Khúc 2
Mẹ đong biển với đầy miệng thúng
Nửa xõa xuống giờ
Nửa ngấm vào xưa
Chiếc đòn gánh xoắn mẹ theo thớ gió
Sấp người đi dọc lát sóng cuối mùa
Ngôi nhà mẹ lợp bằng ngấn sóng
Sực ấm trầu cau
Tơ nhện buông màn
Chân nhện túm vào con nhấc bổng
Mẹ neo vào đăm đắm hoàng hôn
Khúc 3
Anh ẩm (có còn khô)
Lửa hơ màu đá mốc
Muốn mở áo ra vò
Sợ bay nhàu ký ức
Thôi thì đành chịu nhạt
Nước biển rút cầm chừng
Đẩy buồn lên phiêu dạt
Biết lấy gì mà thưng
Giá ngăn bằng vách gió
Anh đỡ bớt bất thường
Chỗ em giờ trắng xóa
Sương sương và sương sương…
Khúc 4
Về thôi người ơi
Lưới chiều đã rách
Còn gì để mất
Có gì để cho
Người ta đếm cá
Mình ra đếm người
Người ta học gói
Mình về học bơi
Mình đi vớt sóng
Sóng mắc nơi nào
Ra khơi vào lộng
Tránh miền lao xao
Khúc 5
Những con sóng bạc màu réo gọi tôi đi
Những con sóng đen vỗ vào tôi đêm lân tinh mặn chát
Cây dương chuốt lại tiếng vĩ cầm đơn độc
Tôi nhổ sợi tóc sâu của cha tôi màu cước
Câu tuổi thơ mình đã tuột khỏi vòng tay
Đêm mẹ tôi: đêm chín - tháng - mười - ngày
(Mười ngày dài hơn chín tháng)
Đêm trở dạ bọc tôi vào tả lót
Xé từ mảnh buồm trong chầm chậm màu nâu
Những con sóng bạc đầu réo gọi tôi đi
Tôi từ giã đom đóm lập lòe và tiếng dế khoan hầm qua vại nước
Từ giã hoa cau
Chiếc thuyền nan úp mặt vào ngơ ngác
Như vỏ cau khô nhớ tiếp một thời trầu
Phấn tô mãi không sao đậm được
Cát vỡ vụn những vì sao trên cát
Những con sóng bạc màu réo gọi tôi đi
Vĩ Thanh
Tôi hòa trộn giữa sông và biển
Tôi là một thứ nước lợ
Con cá Mòi giữa ngày hiếm cá
Đám mây màu vảy cá
Báo trước những cơn dông
Báo trước ngày động biển
Bùng nổ những dây sấm
Buông thỏng xuống những chùm ngôn ngữ
Bóc dần từng lớp vỏ
Đến mặn mòi thịt xương
(SH285/11-12)
Vương Kiều - Lê Đình Ty - Huệ Nguyên - Từ Nguyễn - Từ Dạ Linh - Hoàng Xuân Thảo - Đoàn Mạnh Phương
TRƯƠNG VĂN VĨNH
NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
Tôn Phong - Nguyễn Thất Hanh - Bùi Tấn Xương - Trần Thị Ngọc Mai - Nguyễn Tuất
NGUYỄN VĂN DINH
NGỌC TUYẾT
Trần Xuân An - Lý Hoài Xuân - Mai Nguyên - Trần Thị Huyền Trang - Trần Bá Đại Dương - Nguyễn Loan - Trần Thị Hiền - Đỗ Văn Khoái - Phùng Tấn Đông - Hồ Huệ - Tôn Lệ Thu Châu - Nguyễn Hữu Quý - Nguyễn Phi Trinh - Việt Trác
Tế Hanh - Hoàng Vũ Thuật - Nguyễn Khắc Mai - Tuyết Nga - Thái Ngọc San - Đặng Thị Kim Liên - Trần Vạn Giả - Huỳnh Duy
HẢI KỲ
Lê Văn Ngăn - Nguyễn Xuân Thâm - Phan Lệ Dung - Bành Thanh Bần - Đào Duy Anh
LÂM THỊ MỸ DẠ
HỒNG NHUChiếc tàu cau (Trích)
Minh Huệ - Xuân Quỳnh - Phương Thúy - Trần Thị Hiền - Trần Hải Sâm - Trần Khắc Tám - Hà Linh Chi - Mai Văn Hoan - Văn Tăng - Thiệp Đáng - Nguyễn Thành Phong - Hà Nhật
LTS: “Đi về sao chửa về đi” có lẽ là câu nhắn nhủ nhiều ý nghĩa nhất của Đào Tiềm vào cuối cuộc nhân sinh. Mười năm trước, ở tuổi bảy mươi, sau hơn 50 năm gắn bó với thơ ca, nhà thơ Tường Linh đã viết bài “Khúc ca quy ẩn” như lời từ giã đời thơ.
LTS: Đỗ Hoàng, sinh ngày 11-10-1949 tại Lệ Ninh, Quảng Bình, có thơ in từ năm 1970 ở các sách báo Trung ương và địa phương. Các tập thơ đã được xuất bản: Mùa lên xanh (in chung) - NXB Tác phẩm Mới 1978; Những miền đất nhớ (in chung) - NXB Lao động năm 1983; Những cánh rừng (in chung) - NXB Thanh niên năm 1984…
Đông Hà - Từ Nguyễn - Đông Triều - Quách Thành - Nguyễn Nhã Tiên - Nguyễn Trọng Văn - Quang Huy - Lê Văn Doãn - Trần Nhuận Minh.
L.T.S: Lý Hoài Xuân: Tên thật là Nguyễn Quốc Duẩn, sinh ngày 26-12-1954 tại Lệ Ninh, Quảng Bình. Tốt nghiệp đại học Luật. In thơ từ năm 1973. Là một chiến sĩ quân đội có mặt trong chiến trường Trị Thiên trong những năm ác liệt nhất. Có nhiều bài thơ và truyện ngắn in trên các báo, tạp chí Văn nghệ, Văn nghệ quân đội , Quân đội nhân dân, Đại đoàn kết, Độc lập, Đất Quảng… và sách của NXB Thuận Hóa , Công an nhân dân.
Thêm một biệt thơ hòa vào xu trào cách tân của Thơ Việt; Phan Quỳnh Dao với bút năng khỏe, cách lập ngôn ngoài khuôn cũ, thơ dòng nào cũng đầy ắp nỗi niềm trong tầng tầng suy tư... Chị vừa xuất bản tập thơ “Khuyết” cuối năm 2010 vừa rồi. Xin trân trọng giới thiệu.Đàn An Nguyên (gt)
Nguyễn Văn Dinh sinh ngày 5-3-1932 tại Quảng Trạch, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Có thơ in từ năm 1952. Các tập thơ đã xuất bản: “Hát về ngọn lửa” (in chung), “Cánh buồn quê hương” (in chung), “Hoa trăm miền” (in chung). Giải thưởng về đề tài chống Pháp 1953 của Bộ tư lệnh quân khu 4. Giải thưởng cuộc thi về đề tài lâm nghiệp của Bộ Lâm nghiệp 1969-1971. Giải thưởng văn học Bình Trị Thiên 7 năm 1976-1982.
ĐINH CƯỜNGMười năm rồi Sơn ơi