Năm 1842, ông quan hệ không chính thức với một thiếu nữ ở nông thôn và có một đứa con gái với nàng. Nhưng mối tình chỉ tới đó là chấm dứt. Ông đã gửi con gái cho người khác nuôi.
Năm 1843, trong một cuộc đi săn, ông gặp Louis Viardot. Louis mời ông về nhà chơi và giới thiệu với vợ là Pauline Garcia, một ca sĩ có tài, lại trẻ đẹp, rất nổi tiếng thời bấy giờ. Thế là mối tình thầm lặng đã nẩy nở giữa Pauline và Turgenev.
Năm 1847, Turgenev quyết định rời nước Nga ra đi, vừa để viết văn, vừa có dịp gần với Pauline. Cuốn Bút ký người đi săn viết về đời sống các nông nô bị bạc đãi đã là bản cáo trạng lên án nặng nề chế độ nô lệ ở Nga thời đó.
Năm 1850, Turgenev trở về Nga vì mẹ đau nặng. Chỉ vài phút trước khi nhắm mắt, mẹ ông mới chịu tha thứ cho ông. Ông được hưởng gia tài, liền phóng thích tất cả các nông nô, và tạo lập cho mình một cuộc sống thoải mái.
Cuốn Cha và con xuất bản năm 1861 là tác phẩm có giá trị của Turgenev, đã bày tỏ một cách hùng hồn cho quan niệm cải cách của ông, nhưng cũng do tác phẩm này mà các nhà phê bình lại có cớ để chĩa mũi dùi vào ông. Bực tức với lối suy luận hẹp hòi của các nhà phê bình, ông quyết định ra sống ở nước ngoài và bỏ luôn nghề cầm bút! Nhưng ở Đức, ông lại được văn giới hâm mộ, người ta tiếp đón ông như một ông hoàng. Thế là ông cầm bút trở lại. Năm 1867, cuốn Khói ra đời. Ông đi Paris, kết giao với các nhà văn Pháp nổi tiếng như: Flaubert, Zola, Goncourt …
Năm 1876, ông viết cuốn Đất hoang cũng là một tác phẩm lớn.
Năm 1881, ông bị ung thư tủy và sống hai năm cuối cùng trong đau đớn của bệnh tật. Ông nhắm mắt lìa đời ngày 22 tháng 8 năm 1883 trong sự chăm sóc của Pauline, người bạn tình của ông trong nhiều năm trước, âu đó cũng là một an ủi cho nhà văn thiên tài nhưng cô độc.
(Theo “Những tác phẩm lớn trong văn chương thế giới” do Vũ Dzũng biên soạn).
Truyện tình lãng mạn mà bi thảm “Bác sĩ huyện” thêm một lần nữa cho ta thấy thân phận của tình yêu và khát vọng tình yêu giữa cuộc sống thực tế tầm thường.
Nguyễn Đặng Hồng Chương giới thiệu và dịch
IVAN S. TURGENEV
Một hôm mùa thu trong khi trở về từ một vùng xa xôi của đất nước tôi đã phải lạnh và đổ ốm. May mà lên cơn sốt tại quán trọ trong thị trấn huyện lỵ nên tôi có thể cho gọi bác sĩ. Chưa đầy nửa giờ sau thì bác sĩ huyện đến. Đó là một người đàn ông gầy gò, tóc sẫm màu có chiều cao trung bình. Anh ta cho tôi thuốc tháo mồ hôi thông thường, ra lệnh phải đắp cao mù tạc, rất khéo léo đẩy tờ giấy bạc năm rúp lên tay áo, quay nhìn đi nơi khác khi ho khan, và rồi định đứng dậy ra về, nhưng không hiểu sao mà cứ nán lại chuyện trò say sưa. Tôi kiệt sức vì sốt; tôi nhìn thấy trước một đêm mất ngủ, nên cũng thích tán dăm câu chuyện với một người bạn dễ chịu. Trà được mang vào. Bác sĩ của tôi bắt đầu thoải mái nói chuyện. Anh ta là gã biết điều, nói chuyện hăng hái và khá hài hước. Trên đời có những điều đến lạ: ta có thể sống lâu ngày và có mối quan hệ thân thiện với những ai đó, nhưng chưa bao giờ nói chuyện cởi mở thổ lộ tâm can với họ; thế mà với những người hầu như chưa kịp quen, ta lại đột nhiên nói hết với người đó - hay người đó nói với ta - tất cả các bí mật của ta, như thể đang xưng tội. Tôi không biết tôi đã chiếm được lòng tin của người bạn mới của tôi như thế nào - nhưng không mào đầu gì cả, anh ta đã kể cho tôi nghe một câu chuyện khá lạ lùng; mà ở đây tôi sẽ thông tin lại cho độc giả khoan dung biết. Tôi cố gắng kể lại bằng chính những lời nói của ông bác sĩ này.
“Chắc ông không biết,” anh ta mở lời bằng giọng yếu ớt và run run (ai dùng thuốc lá hít Berezov nguyên chất cũng nói giọng như thế cả); “chắc ông không biết ông quan tòa Mylov, Pavel Lukich Mylov ở đây đâu nhỉ?… Ông không biết ông ta phải không?… Chà, thì cũng thế cả mà thôi.” (Anh ta hắng giọng và dụi mắt.) “Chà, ông biết không, chuyện xảy ra, phải nói rõ để ông khỏi nhầm lẫn, ở Lent, vào đúng khoảng thời gian tuyết tan. Tôi đang ngồi ở nhà ông ấy - ông quan tòa của chúng tôi, ông biết đấy - đang chơi bài. Quan tòa của chúng tôi là người tốt, và thích chơi bài. Bất thình lình” (bác sĩ hay nói mấy chữ bất thình lình này) “họ nói với tôi, ‘Có một người hầu muốn gặp ông.’ Tôi nói, ‘Anh ta muốn gì?’ Họ nói, ‘Anh ta mang đến một bức thư - chắc từ một bệnh nhân.’ ‘Đưa thư đây tôi xem nào,’ tôi nói. Đúng là thư từ một bệnh nhân - tốt thôi - ông hiểu đấy - đó là bát cơm của chúng tôi… Nhưng nó thế này: một quý bà, một góa phụ, viết thư cho tôi; bà ấy nói, ‘Con gái tôi sắp chết. Vì Chúa, xin hãy đến đây cho!’ bà ấy nói, ‘ngựa sẽ được cử tới đón ông.’… Chà, chẳng sao cả. Nhưng bà ấy ở cách thị trấn những hai mươi dặm, và lúc bấy giờ đang nửa đêm, đường sá thì rất kinh! Và vì bà ấy nghèo, nên người ta không thể mong chờ nhiều hơn hai rúp bạc, và thậm chí chỉ bấy nhiêu thôi cũng chưa chắc đã có được; và có lẽ chỉ được trả công bằng một cuộn vải lanh và một bao yến mạch. Tuy nhiên, ông biết đấy, bổn phận là trên hết: một người có thể đang sắp chết. Tôi lập tức đưa những quân bài của mình cho Kalliopin, thành viên hội đồng tỉnh, rồi trở về nhà. Tôi nhìn; một cỗ xe hai bánh nhỏ xập xệ đang đỗ cạnh các bậc tam cấp, với những con ngựa của nông dân, béo - rất béo - bộ lông bờm xờm như nỉ; và người đánh xe ngồi không đội mũ để tỏ lòng tôn trọng. Chà, tôi thầm nghĩ, ‘Thế là đã rõ, anh bạn ạ, những bệnh nhân này không giàu có gì lắm đâu.’… Ông mỉm cười; nhưng tôi nói cho ông biết nhé, một người nghèo như tôi phải cân nhắc hết mọi nhẽ… Nếu người đánh xe ngồi như hoàng tử, chả thèm nhấc mũ chào, mà thậm chí còn cười nhạo ông đằng sau bộ râu của hắn, và gõ gõ ngọn roi - thì ông có thể chắc chắn là sẽ kiếm được sáu rúp. Nhưng tôi thấy trường hợp này có vẻ rất khác. Tuy nhiên, tôi nghĩ đành phải chịu thôi; bổn phận là trên hết mà. Tôi vơ lấy những thứ thuốc men cần thiết nhất, rồi lên đường. Ông có tin được không? Thế mà cuối cùng tôi cũng đến nơi đấy. Đường xấu kinh khủng: nào suối, nào tuyết, nào những dòng nước, tệ nhất là ở đó lại còn bất thình lình bị vỡ đê nữa chứ! Tuy nhiên, cuối cùng tôi cũng đến nơi. Đó là một ngôi nhà nhỏ mái tranh. Có ánh sáng trong những ô cửa sổ; có nghĩa là họ đang đợi tôi. Tôi được một bà già rất đáng kính đội mũ ra đón. ‘Xin hãy cứu lấy nó!’ bà ấy nói; ‘nó sắp chết.’ Tôi nói, ‘Xin bà đừng lo - Người ốm ở đâu?’ ‘Mời đi lối này.’ Tôi thấy một căn phòng nhỏ sạch sẽ có ngọn đèn trong góc; có một cô gái hai mươi tuổi bất tỉnh nằm trên giường. Nàng sốt nóng như lửa đốt, và thở khó nhọc. Hai cô gái khác, các chị của nàng, đang hoảng sợ và khóc lóc. ‘Ngày hôm qua,’ họ nói với tôi, ‘nó vẫn còn rất khỏe và ăn ngon miệng; sáng nay nó than đau đầu, và tối nay, bất thình lình, ông thấy đấy, như thế này đây.’ Tôi lại nói: ‘Xin đừng lo lắng.’ Đó là bổn phận của một bác sĩ, ông biết không - tôi tiến lại gần và lấy máu cho nàng, bảo họ đắp cao mù tạc và cho một liều thuốc hỗn hợp. Trong khi đó tôi nhìn nàng; tôi nhìn nàng, ông biết không - đó, có Chúa chứng giám! Tôi chưa bao giờ thấy một gương mặt nào như thế! - Nói tóm lại, nàng là một giai nhân! Tôi chao đảo vì thương xót. Ôi nét mặt mới đáng yêu làm sao; đôi mắt mới đẹp làm sao!… Nhưng, đội ơn Chúa! nàng đã trở nên dễ chịu hơn; nàng đổ mồ hôi, dường như đã hồi tỉnh, nhìn quanh, mỉm cười, và đưa bàn tay lên vuốt mặt… Các chị của nàng cúi xuống gần nàng. Họ hỏi, ‘Em thấy trong người thế nào?’ ‘Ổn ạ,’ nàng nói, và quay đi. Tôi nhìn nàng; nàng đã chìm vào giấc ngủ. ‘Chà,’ tôi nói, ‘bây giờ nên để cho bệnh nhân được một mình.’ Thế là tất cả chúng tôi rón rén đi ra; chỉ một hầu gái ở lại phòng khi có việc cần. Trên bàn trong phòng khách có ấm samovar, và một chai rum; trong cái nghề của chúng tôi người ta không thể làm tiếp mà không có nó. Họ mời tôi trà; mời tôi ở lại qua đêm… Tôi nhận lời: thực ra, tôi còn biết đi đâu vào giờ đó trong đêm nữa kia chứ? Bà già cứ than thở. ‘Sao lại thế?’ tôi nói; ‘cô ấy sẽ qua khỏi thôi; xin bà đừng lo; bà nên nghỉ ngơi một chút; hai giờ sáng rồi còn gì.’ ‘Nhưng anh sẽ đảm bảo đánh thức tôi dậy nếu có chuyện xảy ra chứ?’. ‘Vâng, vâng.’ Bà già đi khỏi, và những cô gái cũng về phòng; họ dọn một cái giường cho tôi trong phòng khách. Chà, tôi lên giường nằm - nhưng lạ thật, tôi không ngủ được! vì thật sự là tôi đã rất mệt. Tôi không thể đẩy bệnh nhân của tôi ra khỏi đầu. Cuối cùng tôi không thể chịu đựng thêm được nữa; tôi trở dậy bất thình lình; tôi thầm nghĩ, ‘mình sẽ sang xem tình hình bệnh nhân thế nào.’ Phòng ngủ của nàng ở ngay cạnh phòng khách. Chà, tôi trở dậy, và khẽ khàng mở cửa - trái tim tôi mới rộn ràng làm sao! Tôi nhòm vào: cô hầu đã ngủ, miệng há to, và thậm chí còn đang ngáy, khổ thân! nhưng bệnh nhân nằm hướng mặt về phía tôi và dang rộng hai cánh tay, tội nghiệp! Tôi tiến lại gần nàng… bất thình lình nàng mở mắt ra và chòng chọc nhìn tôi! ‘Ai đấy? Ai đấy?’ Tôi bối rối. ‘Xin đừng hốt hoảng, thưa cô,’ tôi nói; ‘tôi là bác sĩ; tôi sang xem cô thế nào.’ ‘Bác sĩ đấy ư?’ ‘Vâng, bác sĩ; mẹ cô đã cho gọi tôi từ thị trấn; chúng tôi đã lấy máu cho cô, thưa cô; bây giờ xin cô hãy ngủ cho, và trong vòng một hai hôm nữa, ơn Chúa! chúng tôi sẽ giúp cho cô lại đứng dậy được.’ ‘À, vâng, vâng, thưa bác sĩ, xin đừng để tôi chết… làm ơn, làm ơn.’ ‘Sao cô lại nói thế? Chúa phù hộ cho cô!’ Nàng lại lên cơn sốt rồi, tôi thầm nghĩ; tôi bắt mạch cho nàng; vâng, nàng hâm hấp sốt. Nàng nhìn tôi, và rồi nắm lấy bàn tay tôi. ‘Tôi sẽ nói cho ông biết tại sao tôi không muốn chết: tôi sẽ nói cho ông biết… Bây giờ chỉ có hai ta; và chỉ, ông làm ơn đừng… không với bất cứ ai… Nghe đây…’. Tôi cúi xuống; nàng đưa đôi môi lại rất gần tai tôi; mái tóc nàng vuốt ve má tôi - thú thật lúc đó đầu óc tôi đã quay cuồng - và bắt đầu thì thầm… tôi không hiểu gì cả… A, nàng mê sảng!… Nàng cứ thì thầm như thế, nhưng rất nhanh, tựa hồ không phải đang nói tiếng Nga; cuối cùng nàng cũng thì thầm xong, rùng mình buông rơi đầu xuống gối, và hăm dọa tôi bằng ngón tay trỏ: ‘Nhớ nhé, bác sĩ, đừng nói với ai đấy.’ Tôi giúp nàng trấn tĩnh lại, lấy đồ uống cho nàng, đánh thức cô hầu dậy, rồi đi ra.”
![]() |
Minh họa: Đặng Mậu Tựu |
Kể đến đây bác sĩ lại hít thuốc lá thật lực, rồi như mê đắm vì phê thuốc.
“Tuy nhiên,” anh ta kể tiếp, “ngày hôm sau, trái với những kỳ vọng của tôi, bệnh nhân lại không khá hơn. Tôi cứ nghĩ mãi, và bất thình lình đi đến quyết định rằng sẽ ở lại, ngay dù các bệnh nhân khác có đang mong chờ tôi... Và ông cũng biết là người ta không thể xem thường chuyện đó; nếu làm thế uy tín nghề nghiệp sẽ bị tổn hại. Nhưng, thứ nhất, bệnh nhân đó thật sự đang lâm nguy; thứ hai, nói thật, tôi cảm thấy bị nàng thu hút mãnh liệt. Vả chăng, tôi quý toàn bộ cái gia đình này. Dẫu nghèo, nhưng tôi có thể nói họ là những con người rất có giáo dục... Cha họ sinh thời là người có học thức, một tác giả; ông ấy chết, dĩ nhiên, trong nghèo khổ, nhưng trước khi chết đã cố gắng cho các con mình được học hành tử tế; ông ấy cũng để lại rất nhiều sách. Không biết có phải vì tôi chăm sóc cho người ốm cẩn thận thật sự, hay vì lý do nào khác, mà tôi dám mạo muội nói rằng cả gia đình đó đều yêu quý tôi như thể tôi là người nhà của họ... Trong khi đó đường sá lại còn xấu hơn trước; tất cả những sự liên lạc, có thể nói thế, đều bị cắt đứt hoàn toàn; thậm chí thuốc men cũng khó khăn mới từ thị trấn đến được... Cô gái ốm không khá hơn... Hết ngày này sang ngày khác, và lại hết ngày này sang ngày khác... nhưng... đây...” (bác sĩ dừng lời một chốc.) “Thú thật tôi không biết phải kể với ông thế nào.”... (Anh ta lại hít thuốc lá, ho, và uống một ngụm trà). “Tôi sẽ kể cho ông nghe chuyện ngay mà không vòng vo dê ngỗng. Bệnh nhân của tôi... tôi nên nói thế nào nhỉ?... Chà, nàng phải lòng tôi... hay, không, không phải nàng phải lòng... tuy nhiên... thật là, người ta nên nói thế nào nhỉ?” (Bác sĩ nhìn xuống và đỏ mặt lên.) “Không,” anh ta vội vàng nói tiếp, “yêu, thực vậy! Một người đàn ông không nên tự đánh giá mình quá cao. Nàng là cô gái có giáo dục, thông minh và đọc nhiều sách, còn tôi thì người ta có thể nói là đã quên hết vốn tiếng Latin. Về vẻ bề ngoài” (bác sĩ mỉm cười tự ngắm mình) “tôi cũng chả có gì để huênh hoang. Nhưng Chúa Toàn Năng đã không tạo ra tôi là một thằng ngốc; tôi không nhầm màu đen với màu trắng; tôi cũng thấu đôi điều; ví như tôi có thể thấy rất rõ là Aleksandra Andreyevna - đó là tên nàng - không cảm thấy có tình yêu, mà có thể nói là chỉ có cảm tình - một lòng tôn trọng hay gì như thế với tôi. Dẫu chính nàng có lẽ cũng nhầm lẫn về tình cảm ấy, dù sao thì đó cũng là quan điểm của nàng; tùy ông muốn cho nó là thế nào cũng được. Nhưng,” bác sĩ nói thêm, anh ta đã nói ra tất cả những câu rời rạc trên mà không lấy hơi, rõ ra cái chiều lúng túng, “hình như tôi kể hơi lung tung - kể thế thì ông hiểu thế nào... Xin phép ông cho tôi được thuật lại tất cả một cách có trật tự.”
Anh ta uống cạn ly trà, và bắt đầu bằng giọng đã bình tĩnh hơn.
“Chà, thế này. Bệnh nhân của tôi cứ yếu dần đi. Thưa ông, ông không phải bác sĩ; ông không hiểu được điều gì vụt qua trái tim của một gã tội nghiệp như thế đâu, đặc biệt khi gã bắt đầu ngờ rằng căn bệnh đang áp đảo gã. Có chuyện gì xảy ra với niềm tin trong lòng gã vậy? Ông bất thình lình trở nên rất rụt rè; tôi không biết phải miêu tả thế nào. Bấy giờ ông tưởng ông đã quên hết mọi điều ông biết, và bệnh nhân không tin ông, những người khác cũng bắt đầu để ý xem ông rối trí thế nào, và miễn cưỡng nói cho ông biết các triệu chứng; rằng họ đang nghi ngờ nhìn ông, thì thầm... A! Thật kinh khủng! Phải có một phương thuốc, ông nghĩ, chữa căn bệnh này, chỉ cần người ta tìm được nó. Không phải thuốc này sao? Ông thử - không, không phải! Ông không chờ cho thuốc có đủ thời gian để phát huy tác dụng... Ông chộp lấy cái này, rồi lại chộp lấy cái kia. Có khi ông cầm một cuốn sách kê toa thuốc lên - nó đây rồi, ông nghĩ! Có khi, ôi Trời, ông hú họa lấy đại một cuốn ra, nghĩ mặc kệ cho số phận... Nhưng trong khi đó có một người đang hấp hối, và bác sĩ khác hẳn sẽ cứu sống được anh ta. ‘Chúng ta phải hội ý,’ ông nói; ‘tôi sẽ không gánh trách nhiệm lên lưng tôi đâu.’ Và nom ông mới ngu ngốc làm sao vào những lúc như thế! Chà, đến lúc rồi ông cũng sẽ học được cách chịu đựng chuyện đó thôi; ông sẽ chẳng làm sao cả. Một người đã chết - nhưng đó không phải lỗi của ông; ông đã điều trị theo đúng các quy tắc. Nhưng điều hành hạ ông còn tàn nhẫn hơn nữa là thấy người ta mù quáng tin vào ông, còn ông thì tự cảm thấy mình không thể giúp được gì. Ôi, cả gia đình Aleksandra Andreyevna đã đặt chính niềm tin mù quáng đó vào tôi; họ quên nghĩ rằng con gái họ đang gặp nguy hiểm. Cả tôi về phía mình cũng đảm bảo với họ là không có gì nghiêm trọng, nhưng nói thế mà tim tôi như chết lặng. Để làm khổ chúng tôi hơn nữa, đường sá lại còn ở trong tình trạng khiến cho người đánh xe phải đi suốt nhiều ngày liền mới lấy được thuốc. Và tôi không lúc nào rời khỏi phòng bệnh nhân; tôi không thể bỏ ra ngoài; tôi kể chuyện vui cho nàng nghe, ông biết không, và chơi bài với nàng. Ban đêm tôi canh chừng ở bên cạnh nàng. Bà mẹ già cảm ơn tôi với những giọt lệ trong đôi mắt; nhưng tôi thầm nghĩ, ‘tôi không xứng đáng với lòng biết ơn của bà.’ Tôi thẳng thắn thú nhận với ông - bây giờ có giấu giếm cũng chẳng để làm gì - tôi đã phải lòng bệnh nhân của tôi. Và Aleksandra Andreyevna cũng yêu quý tôi; có đôi khi nàng không cho ai vào phòng ngoại trừ tôi. Nàng bắt đầu nói chuyện với tôi, hỏi tôi những câu hỏi; tôi đã học ở đâu, tôi sống thế nào, người thân của tôi là những ai, tôi hay đến thăm những ai. Tôi cảm thấy nàng không nên nói chuyện; nhưng cấm nàng - kiên quyết cấm nàng thì, ông biết không - tôi không thể. Thỉnh thoảng tôi lại ôm đầu bằng hai bàn tay, và tự hỏi, ‘Mày đang làm gì vậy, thằng đểu?’... Và nàng sẽ nắm bàn tay tôi, trao cho tôi một cái nhìn thật lâu, và quay đi, thở dài, nói, ‘Ông mới tốt làm sao!’ Đôi bàn tay nàng sốt nóng bừng bừng, đôi mắt nàng thật lớn và mỏi mệt... ‘Vâng,’ nàng nói, ‘ông là người tốt bụng, tử tế; ông không giống như những người hàng xóm của chúng tôi... Không, ông không giống thế... Tại sao đến tận bây giờ tôi mới biết ông!’ ‘Aleksandra Andreyevna, xin hãy bình tĩnh lại,’ tôi nói... ‘Tôi cảm thấy, tin tôi đi, tôi không biết làm sao tôi đã giành được... nhưng đấy, xin hãy bình tĩnh... Tất cả rồi sẽ ổn cả thôi; cô sẽ khỏe lại.’ Và trong khi đó tôi phải nói với ông,” bác sĩ tiếp tục, vừa chồm tới trước và nhướng mày, “rằng họ rất ít hòa hợp với hàng xóm, vì những người bé mọn hơn không ngang hàng với họ, và lòng kiêu hãnh ngăn không cho họ thân thiện với người giàu. Tôi nói cho ông biết thế này nhé, họ là một gia đình có học thức rất cao; nên ông cũng biết là điều đó thật làm tôi phấn khởi như thế nào. Nàng chỉ uống thuốc từ tay tôi... nàng nhổm dậy, tội nghiệp, với sự trợ giúp của tôi, uống thuốc, và đăm đăm nhìn tôi... Tim tôi có cảm giác như sắp nổ tung. Và trong khi đó nàng ngày càng yếu đi, không ngừng ngày càng yếu đi; nàng sắp chết, tôi thầm nghĩ; không còn cách gì cứu vãn được. Tin tôi đi, tôi sẵn lòng xuống mồ thay cho nàng; và đây là mẹ và các chị nàng đang canh chừng tôi, nhìn vào mắt tôi... và niềm tin họ đặt vào tôi đang suy giảm. ‘Sao? Cô ấy thế nào?’ ‘Ồ, không sao, không sao!’ Không sao, quả vậy! Tâm trí tôi rối bời. Chà, một đêm tôi lại ngồi một mình bên cạnh bệnh nhân của tôi. Cô hầu gái cũng ngồi đó, nhưng ngáy khò khò; dù vậy tôi không thể thấy cô gái tội nghiệp đó có lỗi gì; cô ấy cũng kiệt sức rồi. Aleksandra Andreyevna đã cảm thấy rất không khỏe suốt cả buổi tối; nàng sốt rất cao. Cho đến nửa đêm nàng cứ vật mình không ngớt; cuối cùng nàng dường như đã chìm vào giấc ngủ; ít nhất là nằm im không cựa quậy. Ngọn đèn cháy sáng trong góc trước ảnh thánh. Ông biết không, tôi gục đầu ngồi đó; tôi thậm chí còn ngủ lơ mơ một chút. Bất thình lình tôi cảm thấy như thể có ai đó chạm vào người mình; tôi quay lại... Ôi Chúa nhân từ ơi! Aleksandra Andreyevna đang đăm đăm nhìn tôi bằng đôi mắt chăm chú... đôi môi nàng hé mở, hai má nàng dường như đang bốc cháy. ‘Có chuyện gì vậy?’ ‘Bác sĩ ơi, tôi sắp chết rồi phải không?’ ‘Ôi thiên đường đầy lòng thương xót!’ ‘Không, bác sĩ, không; làm ơn xin đừng nói với tôi rằng tôi sẽ sống... xin đừng nói thế... Giá mà ông biết... Nghe đây! vì Chúa xin đừng giấu giếm tình trạng thật của tôi,’ và nàng thở dồn dập. ‘Nếu có thể biết chắc rằng không thể cứu tôi được nữa... thì tôi sẽ nói cho ông biết tất cả - tất cả!’ ‘Aleksandra Andreyevna ơi, tôi xin cô!’ ‘Nghe đây; tôi đã không ngủ chút nào... Tôi đã nhìn ông rất lâu... Vì Chúa!... Tôi tin ông; ông là người tốt bụng, lương thiện; tôi van xin ông nhân danh tất cả những gì là thiêng liêng nhất trên cõi đời này - hãy nói cho tôi biết sự thật! Giá ông biết điều đó quan trọng với tôi nhường nào... Thưa bác sĩ, vì Chúa xin hãy nói cho tôi biết... Tôi đang gặp nguy hiểm có phải không?’ ‘Chúa ơi, tôi biết nói gì với cô đây, Aleksandra Andreyevna?’ ‘Vì Chúa, tôi van ông!’ ‘Tôi không thể giấu không cho cô biết,’ tôi nói, ‘Aleksandra Andreyevna; tất nhiên là cô đang gặp nguy hiểm; nhưng Chúa đầy lòng trắc ẩn.’ ‘Tôi sắp chết, tôi sắp chết.’ Và nàng dường như lấy làm hài lòng, mặt mày rạng rỡ; tôi hốt hoảng. ‘Đừng lo, đừng lo! Tôi không sợ chết chút nào đâu.’ Nàng bất thình lình ngồi dậy tựa mình lên khuỷu tay. ‘Bây giờ... vâng, bây giờ thì tôi có thể nói với ông rằng tôi cảm ơn ông bằng toàn bộ trái tim tôi... rằng ông tử tế và tốt bụng - rằng tôi yêu ông!’ Tôi tròn mắt nhìn nàng, như người bị quỷ ám; điều đó thật kinh khủng với tôi, ông biết không. ‘Ông có nghe không, tôi yêu ông!’ ‘Aleksandra Andreyevna, làm sao tôi xứng đáng...’ ‘Không, không, ông không - ông không hiểu tôi.’... Và bất thình lình nàng dang hai cánh tay ra ôm đầu tôi trong hai bàn tay và hôn tôi... Tin tôi đi, suýt nữa thì tôi đã hét lớn lên... Tôi quỳ sụp xuống hai đầu gối và vùi đầu vào gối. Nàng không nói gì; những ngón tay nàng run rẩy trong tóc tôi; tôi lắng nghe; nàng đang khóc. Tôi bắt đầu dỗ dành, trấn an nàng... Tôi thật sự không biết mình đã nói gì với nàng. ‘Khéo cô đánh thức cô hầu gái dậy bây giờ,’ tôi nói với nàng; ‘Aleksandra Andreyevna, tôi cảm ơn cô... xin hãy tin tôi... bình tĩnh lại nào.’ ‘Đủ rồi, đủ rồi!’ nàng khăng khăng; ‘đừng bận tâm đến tất cả bọn họ; cứ để cho họ thức dậy; cứ để cho họ vào đây - điều đó thì quan trọng gì; tôi sắp chết, ông thấy đấy... Và ông sợ gì vậy? Tại sao ông lại sợ? Ngước đầu lên nào... Hay, có lẽ, ông không yêu tôi; có lẽ tôi đã nhầm... Nếu vậy, xin hãy thứ lỗi cho tôi.’ ‘Aleksandra Andreyevna, cô đang nói gì vậy!... Tôi yêu cô, Aleksandra Andreyevna.’ Nàng nhìn thẳng vào mắt tôi, và dang rộng hai cánh tay. ‘Thế thì ôm tôi vào vòng tay ông đi nào.’ Xin được nói thẳng với ông thế này, tôi không biết làm sao đêm hôm đó tôi lại không phát điên. Tôi cảm thấy bệnh nhân của tôi đang tự giết chết chính nàng; tôi thấy nàng không hoàn toàn tỉnh táo; tôi cũng hiểu rằng nếu không tự xem mình là sắp chết, thì nàng sẽ không bao giờ nghĩ đến tôi; và, quả thực, dù ông có nói gì đi chăng nữa, thật khó khăn nếu phải chết ở tuổi hai mươi khi người ta chưa biết đến tình yêu; đây là điều đã hành hạ nàng; đây là lý do vì sao, trong tuyệt vọng, nàng đã vồ lấy tôi - bây giờ ông hiểu chưa? Nhưng nàng ôm tôi trong vòng tay, và không buông tôi ra nữa. ‘Xin hãy thương tôi, Aleksandra Andreyevna, và thương lấy chính bản thân cô,’ tôi nói. ‘Tại sao,’ nàng nói; ‘có gì mà phải nghĩ? Ông biết là không còn cách gì cứu được tôi nữa rồi kia mà.’... Câu này nàng không ngừng nhắc đi nhắc lại... ‘Nếu biết rằng tôi sẽ quay trở lại với cuộc sống, và lại là một quý cô trẻ tuổi đích thực, thì tôi sẽ xấu hổ... dĩ nhiên, xấu hổ... nhưng bây giờ thì tại sao?’ ‘Nhưng ai nói rằng cô sắp chết?’ ‘Ồ, không, thôi đi! đừng lừa dối tôi nữa; ông không biết cách nói dối đâu - nhìn mặt ông xem.’... ‘Cô sẽ sống, Aleksandra Andreyevna; tôi sẽ chữa khỏi cho cô; chúng ta sẽ xin mẹ cô ban ơn phước... chúng ta sẽ được kết hợp - chúng ta sẽ hạnh phúc.’ ‘Không, không, tôi có lời của ông; không thể cứu sống tôi được nữa... ông đã hứa với tôi... ông đã nói với tôi.’... Thật tàn nhẫn với tôi - tàn nhẫn vì nhiều lẽ. Và hãy xem thỉnh thoảng những điều vặt vãnh có thể làm được những gì; dường như không hề có gì cả, nhưng đầy đau đớn. Nàng bỗng nhiên hỏi tên tôi là gì; không phải họ, mà là tên tôi. Tôi hẳn phải rất không may nên mới bị gọi là Trifon. Vâng, đúng vậy; Trifon Ivanich. Mọi người trong ngôi nhà đó đều gọi tôi là bác sĩ. Tuy nhiên, cũng đành phải chịu như thế thôi. Tôi nói, ‘Trifon, thưa cô.’ Nàng nhíu mày, lắc đầu, và lẩm bẩm điều gì đó bằng tiếng Pháp - a, điều gì đó khó chịu, dĩ nhiên! - và rồi nàng cười - cũng không phải dễ chịu gì. Chà, tôi đã qua cả đêm hôm đó với nàng như thế đấy. Tôi ra khỏi phòng trước khi trời sáng, cảm thấy như thể mình đã bị điên. Trời đã tỏ khi tôi lại vào phòng nàng, sau bữa trà sáng. Ôi Chúa nhân từ! Tôi hầu như không thể nhận ra nàng nổi nữa; người đã nằm dưới mồ trông còn khá hơn. Bây giờ, tôi xin thề với ông, trên danh dự của tôi, tôi không hiểu - tôi tuyệt đối không hiểu - làm sao mình đã sống qua được trải nghiệm đó. Bệnh nhân của tôi thoi thóp ba ngày ba đêm. Và những đêm thế nào chứ! Nàng đã nói với tôi những điều thế nào chứ! Và vào đêm cuối cùng - ông hãy tự tưởng tượng lấy - tôi đang ngồi cạnh nàng, và cứ cầu nguyện Chúa xin một điều duy nhất: ‘Xin hãy đưa nàng đi,’ tôi nói, ‘cho nhanh, và cho cả con cùng đi với nàng.’ Bất thình lình bà mẹ già đột nhiên vào phòng. Tối hôm trước đó tôi đã nói cho bà mẹ ấy biết rằng còn rất ít hy vọng, và nên cho gọi một linh mục. Cô gái ốm nói khi thấy mẹ: ‘Thật hay khi mẹ vào thế này; hãy nhìn chúng con, chúng con yêu nhau - chúng con đã ngỏ lời với nhau.’ ‘Nó nói gì vậy, bác sĩ? nó nói gì vậy?’ Tôi tái mặt. ‘Cô ấy đang mê sảng,’ tôi nói; ‘sốt cao quá.’ Nhưng nàng: ‘Suỵt, suỵt; ông vừa mới nói với tôi điều hoàn toàn khác, và đã nhận nhẫn của tôi. Tại sao ông lại giả vờ? Mẹ tôi tốt lắm - bà ấy sẽ tha thứ - bà ấy sẽ hiểu... - và tôi sắp chết... Tôi không cần phải nói dối; đưa bàn tay ông cho tôi nào.’ Tôi đứng bật dậy chạy ra khỏi phòng. Bà già ấy, dĩ nhiên, đã đoán được chuyện là thế nào.
“Tuy nhiên, tôi sẽ không làm ông mệt mỏi thêm nữa, và dĩ nhiên, chính tôi cũng rất đau lòng khi phải nhớ lại tất cả những chuyện này. Hôm sau thì bệnh nhân của tôi qua đời. Cầu Chúa cho linh hồn nàng được yên nghỉ!” Bác sĩ thêm, nói nhanh và với một tiếng thở dài. “Trước khi mất nàng bảo gia đình đi ra ngoài để trong phòng chỉ còn lại mình tôi với nàng.”
“‘Thứ lỗi cho tôi,’ nàng nói; ‘có lẽ tôi có lỗi với ông... tôi ốm yếu... nhưng xin hãy tin tôi, tôi chưa bao giờ yêu ai hơn ông... xin đừng quên tôi... hãy giữ chiếc nhẫn của tôi.’”
Bác sĩ quay đi; tôi nắm lấy bàn tay anh ta.
“Thôi!” Anh ta nói, “chúng ta nói chuyện khác đi nào, hay ông muốn chơi bài ăn ít tiền chăng? Mở đường cho những tình cảm cao quý không phải là việc dành cho những người như tôi. Tôi chỉ còn duy nhất một chuyện để nghĩ; làm sao cho các con tôi đừng khóc và vợ tôi đừng chửi. Từ đó, ông biết không, tôi đã kịp bước chân vào tình trạng có vợ một cách hợp pháp, như người ta nói... Ôi... Tôi cưới con gái của một thương nhân - của hồi môn của cô ta những bảy nghìn. Tên cô ta là Akulina; nó hợp với tên Trifon. Cô ta là mụ đàn bà xấu tính, tôi phải nói vậy với ông, nhưng may sao lại ngủ suốt ngày... Thế nào, chơi bài chứ?”
Chúng tôi ngồi xuống chơi bài ăn nửa xu. Trifon Ivanich thắng của tôi hai rúp rưỡi, và về nhà muộn, rất hài lòng với thành công của mình.
I.S.T
(TCSH437/07-2025)
YUKIO MISHIMA (Nhật Bản)YUKIO MISHIMA tên thật là HIRAOKA KIMITAKE (1925-1970). Sinh tại Tokyo.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Tokyo . Nhà văn, kịch tác gia, đạo diễn sân khấu và điện ảnh, diễn viên.Năm 16 tuổi đã xuất bản truyện vừa lãng mạn Khu rừng nở hoa. Tiểu thuyết Lời thú tội của chiếc mặt nạ ra năm 1949 đã khẳng định tên tuổi của nhà văn trẻ tài năng và trở thành tác phẩm được đánh giá là kinh điển của nền văn học Nhật Bản.
KOMASHU SAKIO (Nhật Bản)Sinh 28/1/1931 tại Osaka (Nhật Bản). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản.Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto , chuyên ngành Văn học Italia.Từ năm 1957 là phóng viên Đài Phát thanh Osaka và viết cho một số các báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí "SF Magasines" tổ chức.Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
S. MROZEK (Ba Lan)Có lần tôi bắt gặp một con chó ác bụng đang rượt đuổi một con mèo. Bởi tôi là người yêu động vật nên tôi bèn vớ ngay một cục đá to sụ quẳng vào con chó khiến nó ngã lăn quay, nằm đứ đừ một hồi lâu. Chú mèo nhỏ không nhà, con vật bé xíu nom mệt phờ râu. Không chút do dự - tôi cho nó nương nhờ. Đây quả là một con mèo đẹp mã, lông mịn màng, mắt long lanh. Tôi đem nhốt nó vào trong nhà, đoạn bỏ đi chơi bời trác táng.
KITA MORIO (Nhật Bản)Kita Morio (sinh năm 1927) là nhà văn thuộc thế hệ hậu chiến của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Y. Năm 1960 được trao giải thưởng mang tên Akutagawa với truyện ngắn Trong bóng tối đêm, cốt truyện xảy ra trong một bệnh viện tâm thần ở Đức thời kì Chiến Tranh Thế Giới thứ II. Nổi tiếng với các tác phẩm giả tưởng khoa học và chống chiến tranh.
SINCLAIR LEWISLGT: SINCLAIR LEWIS (1885 - 1951, giải thưởng Nobel 1930)Ông là tiểu thuyết gia, người viết truyện ngắn có tiếng và nhà viết phê bình có uy tín ở Mỹ.
BRUNO LESSINGLGT: Bruno Lessing (1870-1940) sinh tại New York, Mỹ. Tên thật của ông là Rudolp Block nhưng ông nổi tiếng với tư cách là nhà văn chuyên viết truyện ngắn dưới bút danh Bruno Lessing. Ông là phóng viên và sau đó là biên tập viên cho nhiều tờ báo. Mô tả của Lessing về cuộc sống của người Do Thái ở New York được đánh giá cao. Truyện dưới đây được dẫn dắt một cách hấp dẫn, lý thú, làm nổi bật mối quan hệ giữa hai thế hệ: cha và con, vấn đề nhập cư, đồng hóa hay giữ bản sắc văn hóa với một giọng điệu dí dỏm.
JUAN JOSÉ ARREOLA (Sinh 1918, Nhà văn Mêhicô)LGT: Arreola là một nhà cách tân lớn về truyện kể. Là một người tự học tài năng, ông sở đắc một nền văn hoá rộng lớn, cũng như trải qua nhiều nghề khác nhau để kiếm sống. Arreola chủ yếu sáng tác những truyện kể ngắn, cô đúc, mỉa mai, hay bí ẩn, ưa thích cái nghịch lý và ông là một trong những bậc thầy của hình thức truyện ngắn này. Ba tuyển tập truyện ngắn của ông là Varia Invencion (1049), Confabulario (1952), Confabulario Définitivo (1087).
KAWABATA YASUNARI LGT: KAWABATA YASUNARI (1899 - 1972) là nhà văn đầu tiên của Nhật Bản đoạt giải thưởng Nobel văn chương (1968). Ông nổi tiếng thế giới với những tiểu thuyết như: Xứ Tuyết (1935 - 1947), Ngàn cánh hạc (1949), Tiếng rền của núi (1950), Người đẹp say ngủ (1961), Cố đô (1962)...
MATVEEVA ANNALGT: MATVEEVA ANNA (Sinh 1975) là một nhà văn nữ trẻ của văn học Nga đương đại tài năng đầy hứa hẹn. Đã xuất bản một số tập truyện ngắn. Truyện ngắn của cô đã được đăng trong các tạp chí lớn của Nga như Thế giới mới, Tháng Mười. Văn xuôi của cô hóm hỉnh, thể hiện sự tò mò sắc sảo trước cuộc sống và con người. Tác phẩm của cô được xem như thể hiện một số sắc thái và đặc điểm của văn xuôi hậu hiện đại Nga hiện nay. Xin trân trọng giới thiệu truyện ngắn “Con chó” dưới đây của nữ văn sĩ qua bản dịch của nữ dịch giả Đào Tuấn Ảnh.
YVELINE FÉRAYLTS: Monsieur le paresseux là cuốn tiểu thuyết lịch sử dày gần 300 trang của nữ văn sỹ Pháp Yveline Féray viết về Đại danh y Việt Nam Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, do Nhà xuất bản Robert Laffont ở Paris ấn hành năm 2000. Trước đó, năm 1989 nữ văn sỹ này đã cho xuất bản ở Pháp cuốn tiểu thuyết dày 1000 trang Dix mille printemps, viết về Nguyễn Trãi - nhà chính trị, quân sự lỗi lạc; nhà thơ lớn của Việt Nam ở thế kỷ XV.
MARSEL SALIMOV (LB NGA)Đất nước ta quá giàu! Vì thế tôi nảy ra ý định muốn cuỗm một thứ gì đó. Những tên kẻ cắp ngày nay chả giống như trước đây. Chúng không thèm để mắt đến những thứ lặt vặt. Cả một đoàn tàu bỗng dưng biến mất tăm! Những nhà máy không thể di dời được, thế nhưng người ta lại nghĩ ra kế chiếm đoạt chúng. Nghe đồn nay mai người ta sẽ bắt đầu chia chác cả đất lẫn nước!
AKILE CAMPANILE(Nhà văn Italia)LTS: Số Tết này, TCSH chọn một truyện ngắn hài hước của một nhà văn Ý, có nhan đề “Ngón nghề kinh doanh”, qua bản dịch của dịch giả nổi tiếng Lê Sơn, để bạn đọc có dịp thư giãn trong dịp đầu Xuân.
HERMANN HESSE Tương truyền thi nhân người Tàu tên Han Fook thuở thiếu thời chỉ thao thức với một khát khao kỳ diệu là muốn học hết mọi điều và tự rèn luyện mình đến hoàn hảo trong tất cả các môn liên quan đến nghệ thuật thi ca.
OLGA TOKARCZUK (Nữ nhà văn Ba Lan)LGT: Nữ văn sĩ Ba Lan Olga Tokarczuk sinh năm 1962 tại Sulechow, Ba Lan. Bà là nhà văn “hậu hiện đại” và “nữ quyền”. Năm 1979 những truyện ngắn đầu tay của bà được đăng tải trên Tạp chí Thanh niên, năm 1989 những bài thơ đầu tay được in trong các tạp chí “Rađa” và “Đời sống văn học”.
NADINE GORDIMER ( Phi), Giải Nobel 1991LGT: Nữ văn sĩ Nadine Gordimer sinh năm 1923 tại Phi. Bà cho in truyện ngắn đầu tay năm 15 tuổi và tiếp tục nghề văn khi còn là sinh viên Đại học Wirwatersrand. Có thời kỳ sách của bà bị chế độ phân biệt chủng tộc Phi cấm đoán. N.Gordimer được trao tặng nhiều giải thưởng văn học, trong đó có giải Nobel văn chương năm 1991.
OLGA TOKARCZUKLGT: Trong số tháng 3 – 2007 (217), Sông Hương đã giới thiệu tới bạn đọc truyện ngắn “Người đàn bà xấu nhất hành tinh” của OLGA TOKARCZUK, một nữ văn sĩ thuộc dòng văn học nữ “hậu hiện đại Ba Lan”. Số báo này, Sông Hương xin giới thiệu tiếp truyện ngắn “Vũ nữ”. Đây là một truyện ngắn độc đáo dựa trên một leimotic “cuộc đối thoại vô hình” giữa người con gái và người cha, láy đi láy lại đến 6 lần, thể hiện cuộc chiến đấu âm thầm dữ dội, tự khẳng định mình trong nghệ thuật, chống lại sức mạnh ám ảnh của mặc cảm “bất tài”.
BERNARD MALAMUDLGT: Bernard Malamud sinh năm 1914 tại Brooklyn, New York, lớn lên trong thời kỳ Đại Khủng hoảng Kinh tế, là người Nga gốc Do Thái trong một gia đình bán tạp hoá. Ông đã xuất bản nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn và được nhận nhiều giải thưởng văn học.
RADOI RALIN (Bungari)LGT: Đây là một truyện có ý vị sâu xa với các môtíp sự cám dỗ của quyền lực, “sự đồng loã ngây thơ” với tội ác, sự tự nhận thức và tự trừng phạt. Nhưng trên hết là sự vạch trần và tố cáo sự bịp bợm quỷ kế của giới quyền lực. Đây là một truyện ngụ ngôn mới đặc sắc. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.
ZACE HAMMERTON (Anh quốc)LGT: Truyện dựng chân dung của một kẻ “Sính khiếu nại” “một cách hài hước, bố của John Peters có “Thú đam mê sưu tập tem”. Cách dẫn chuyện tài tình ở cái chi tiết sự ham mê của anh với một loại tem đặc biệt không đục lỗ chiếu ứng với cái kết bất ngờ của truyện “Có của rơi vào tay mà để vuột mất”. Mời bạn đọc thưởng thức.
TOIVO TOOTSEN ( )LGT: Đây là một truyện hài hước thú vị về nạn kẹt xe. Tác giả đã sử dụng một thủ pháp phóng đại đến mức vô lý, không tưởng: một vụ kẹt xe bất tận từ đám cưới đến sinh con, ly dị, tái kết hôn, con vào đại học và kết hôn mà cuộc kẹt xe vẫn chưa kết thúc!. Mượn một tình huống kẹt xe “hoang tưởng” này, nhà văn muốn gởi tới một thông điệp hài hước một cách bi đát: nếu giao thông ở các đô thị lớn không ở các đô thị lớn không được tổ chức một cách khoa học thì từ đời cha đến đời con nạn kẹt xe vẫn chưa được giải quyết. TSCH