Bác sĩ huyện

08:20 18/08/2025
Ivan Sergeyevich Turgenev sinh ngày 28 tháng 10 năm 1818 ở Oryol, Nga. Ông lớn hơn Dostoyevsky 3 tuổi và lớn hơn Tolstoy 10 tuổi. Ba người này là những nhà văn lớn nhất của Nga trong hậu bán thế kỷ thứ 19.

Năm 1842, ông quan hệ không chính thức với một thiếu nữ ở nông thôn và có một đứa con gái với nàng. Nhưng mối tình chỉ tới đó là chấm dứt. Ông đã gửi con gái cho người khác nuôi.

Năm 1843, trong một cuộc đi săn, ông gặp Louis Viardot. Louis mời ông về nhà chơi và giới thiệu với vợ là Pauline Garcia, một ca sĩ có tài, lại trẻ đẹp, rất nổi tiếng thời bấy giờ. Thế là mối tình thầm lặng đã nẩy nở giữa Pauline và Turgenev.

Năm 1847, Turgenev quyết định rời nước Nga ra đi, vừa để viết văn, vừa có dịp gần với Pauline. Cuốn Bút ký người đi săn viết về đời sống các nông nô bị bạc đãi đã là bản cáo trạng lên án nặng nề chế độ nô lệ ở Nga thời đó.

Năm 1850, Turgenev trở về Nga vì mẹ đau nặng. Chỉ vài phút trước khi nhắm mắt, mẹ ông mới chịu tha thứ cho ông. Ông được hưởng gia tài, liền phóng thích tất cả các nông nô, và tạo lập cho mình một cuộc sống thoải mái.

Cuốn Cha và con xuất bản năm 1861 là tác phẩm có giá trị của Turgenev, đã bày tỏ một cách hùng hồn cho quan niệm cải cách của ông, nhưng cũng do tác phẩm này mà các nhà phê bình lại có cớ để chĩa mũi dùi vào ông. Bực tức với lối suy luận hẹp hòi của các nhà phê bình, ông quyết định ra sống ở nước ngoài và bỏ luôn nghề cầm bút! Nhưng ở Đức, ông lại được văn giới hâm mộ, người ta tiếp đón ông như một ông hoàng. Thế là ông cầm bút trở lại. Năm 1867, cuốn Khói ra đời. Ông đi Paris, kết giao với các nhà văn Pháp nổi tiếng như: Flaubert, Zola, Goncourt …

Năm 1876, ông viết cuốn Đất hoang cũng là một tác phẩm lớn.

Năm 1881, ông bị ung thư tủy và sống hai năm cuối cùng trong đau đớn của bệnh tật. Ông nhắm mắt lìa đời ngày 22 tháng 8 năm 1883 trong sự chăm sóc của Pauline, người bạn tình của ông trong nhiều năm trước, âu đó cũng là một an ủi cho nhà văn thiên tài nhưng cô độc.

(Theo “Những tác phẩm lớn trong văn chương thế giới” do Vũ Dzũng biên soạn).

Truyện tình lãng mạn mà bi thảm “Bác sĩ huyện” thêm một lần nữa cho ta thấy thân phận của tình yêu và khát vọng tình yêu giữa cuộc sống thực tế tầm thường.

                                   Nguyễn Đặng Hồng Chương giới thiệu và dịch

 

IVAN S. TURGENEV
 

Một hôm mùa thu trong khi trở về từ một vùng xa xôi của đất nước tôi đã phải lạnh và đổ ốm. May mà lên cơn sốt tại quán trọ trong thị trấn huyện lỵ nên tôi có thể cho gọi bác sĩ. Chưa đầy nửa giờ sau thì bác sĩ huyện đến. Đó là một người đàn ông gầy gò, tóc sẫm màu có chiều cao trung bình. Anh ta cho tôi thuốc tháo mồ hôi thông thường, ra lệnh phải đắp cao mù tạc, rất khéo léo đẩy tờ giấy bạc năm rúp lên tay áo, quay nhìn đi nơi khác khi ho khan, và rồi định đứng dậy ra về, nhưng không hiểu sao mà cứ nán lại chuyện trò say sưa. Tôi kiệt sức vì sốt; tôi nhìn thấy trước một đêm mất ngủ, nên cũng thích tán dăm câu chuyện với một người bạn dễ chịu. Trà được mang vào. Bác sĩ của tôi bắt đầu thoải mái nói chuyện. Anh ta là gã biết điều, nói chuyện hăng hái và khá hài hước. Trên đời có những điều đến lạ: ta có thể sống lâu ngày và có mối quan hệ thân thiện với những ai đó, nhưng chưa bao giờ nói chuyện cởi mở thổ lộ tâm can với họ; thế mà với những người hầu như chưa kịp quen, ta lại đột nhiên nói hết với người đó - hay người đó nói với ta - tất cả các bí mật của ta, như thể đang xưng tội. Tôi không biết tôi đã chiếm được lòng tin của người bạn mới của tôi như thế nào - nhưng không mào đầu gì cả, anh ta đã kể cho tôi nghe một câu chuyện khá lạ lùng; mà ở đây tôi sẽ thông tin lại cho độc giả khoan dung biết. Tôi cố gắng kể lại bằng chính những lời nói của ông bác sĩ này.

“Chắc ông không biết,” anh ta mở lời bằng giọng yếu ớt và run run (ai dùng thuốc lá hít Berezov nguyên chất cũng nói giọng như thế cả); “chắc ông không biết ông quan tòa Mylov, Pavel Lukich Mylov ở đây đâu nhỉ?… Ông không biết ông ta phải không?… Chà, thì cũng thế cả mà thôi.” (Anh ta hắng giọng và dụi mắt.) “Chà, ông biết không, chuyện xảy ra, phải nói rõ để ông khỏi nhầm lẫn, ở Lent, vào đúng khoảng thời gian tuyết tan. Tôi đang ngồi ở nhà ông ấy - ông quan tòa của chúng tôi, ông biết đấy - đang chơi bài. Quan tòa của chúng tôi là người tốt, và thích chơi bài. Bất thình lình” (bác sĩ hay nói mấy chữ bất thình lình này) “họ nói với tôi, ‘Có một người hầu muốn gặp ông.’ Tôi nói, ‘Anh ta muốn gì?’ Họ nói, ‘Anh ta mang đến một bức thư - chắc từ một bệnh nhân.’ ‘Đưa thư đây tôi xem nào,’ tôi nói. Đúng là thư từ một bệnh nhân - tốt thôi - ông hiểu đấy - đó là bát cơm của chúng tôi… Nhưng nó thế này: một quý bà, một góa phụ, viết thư cho tôi; bà ấy nói, ‘Con gái tôi sắp chết. Vì Chúa, xin hãy đến đây cho!’ bà ấy nói, ‘ngựa sẽ được cử tới đón ông.’… Chà, chẳng sao cả. Nhưng bà ấy ở cách thị trấn những hai mươi dặm, và lúc bấy giờ đang nửa đêm, đường sá thì rất kinh! Và vì bà ấy nghèo, nên người ta không thể mong chờ nhiều hơn hai rúp bạc, và thậm chí chỉ bấy nhiêu thôi cũng chưa chắc đã có được; và có lẽ chỉ được trả công bằng một cuộn vải lanh và một bao yến mạch. Tuy nhiên, ông biết đấy, bổn phận là trên hết: một người có thể đang sắp chết. Tôi lập tức đưa những quân bài của mình cho Kalliopin, thành viên hội đồng tỉnh, rồi trở về nhà. Tôi nhìn; một cỗ xe hai bánh nhỏ xập xệ đang đỗ cạnh các bậc tam cấp, với những con ngựa của nông dân, béo - rất béo - bộ lông bờm xờm như nỉ; và người đánh xe ngồi không đội mũ để tỏ lòng tôn trọng. Chà, tôi thầm nghĩ, ‘Thế là đã rõ, anh bạn ạ, những bệnh nhân này không giàu có gì lắm đâu.’… Ông mỉm cười; nhưng tôi nói cho ông biết nhé, một người nghèo như tôi phải cân nhắc hết mọi nhẽ… Nếu người đánh xe ngồi như hoàng tử, chả thèm nhấc mũ chào, mà thậm chí còn cười nhạo ông đằng sau bộ râu của hắn, và gõ gõ ngọn roi - thì ông có thể chắc chắn là sẽ kiếm được sáu rúp. Nhưng tôi thấy trường hợp này có vẻ rất khác. Tuy nhiên, tôi nghĩ đành phải chịu thôi; bổn phận là trên hết mà. Tôi vơ lấy những thứ thuốc men cần thiết nhất, rồi lên đường. Ông có tin được không? Thế mà cuối cùng tôi cũng đến nơi đấy. Đường xấu kinh khủng: nào suối, nào tuyết, nào những dòng nước, tệ nhất là ở đó lại còn bất thình lình bị vỡ đê nữa chứ! Tuy nhiên, cuối cùng tôi cũng đến nơi. Đó là một ngôi nhà nhỏ mái tranh. Có ánh sáng trong những ô cửa sổ; có nghĩa là họ đang đợi tôi. Tôi được một bà già rất đáng kính đội mũ ra đón. ‘Xin hãy cứu lấy nó!’ bà ấy nói; ‘nó sắp chết.’ Tôi nói, ‘Xin bà đừng lo - Người ốm ở đâu?’ ‘Mời đi lối này.’ Tôi thấy một căn phòng nhỏ sạch sẽ có ngọn đèn trong góc; có một cô gái hai mươi tuổi bất tỉnh nằm trên giường. Nàng sốt nóng như lửa đốt, và thở khó nhọc. Hai cô gái khác, các chị của nàng, đang hoảng sợ và khóc lóc. ‘Ngày hôm qua,’ họ nói với tôi, ‘nó vẫn còn rất khỏe và ăn ngon miệng; sáng nay nó than đau đầu, và tối nay, bất thình lình, ông thấy đấy, như thế này đây.’ Tôi lại nói: ‘Xin đừng lo lắng.’ Đó là bổn phận của một bác sĩ, ông biết không - tôi tiến lại gần và lấy máu cho nàng, bảo họ đắp cao mù tạc và cho một liều thuốc hỗn hợp. Trong khi đó tôi nhìn nàng; tôi nhìn nàng, ông biết không - đó, có Chúa chứng giám! Tôi chưa bao giờ thấy một gương mặt nào như thế! - Nói tóm lại, nàng là một giai nhân! Tôi chao đảo vì thương xót. Ôi nét mặt mới đáng yêu làm sao; đôi mắt mới đẹp làm sao!… Nhưng, đội ơn Chúa! nàng đã trở nên dễ chịu hơn; nàng đổ mồ hôi, dường như đã hồi tỉnh, nhìn quanh, mỉm cười, và đưa bàn tay lên vuốt mặt… Các chị của nàng cúi xuống gần nàng. Họ hỏi, ‘Em thấy trong người thế nào?’ ‘Ổn ạ,’ nàng nói, và quay đi. Tôi nhìn nàng; nàng đã chìm vào giấc ngủ. ‘Chà,’ tôi nói, ‘bây giờ nên để cho bệnh nhân được một mình.’ Thế là tất cả chúng tôi rón rén đi ra; chỉ một hầu gái ở lại phòng khi có việc cần. Trên bàn trong phòng khách có ấm samovar, và một chai rum; trong cái nghề của chúng tôi người ta không thể làm tiếp mà không có nó. Họ mời tôi trà; mời tôi ở lại qua đêm… Tôi nhận lời: thực ra, tôi còn biết đi đâu vào giờ đó trong đêm nữa kia chứ? Bà già cứ than thở. ‘Sao lại thế?’ tôi nói; ‘cô ấy sẽ qua khỏi thôi; xin bà đừng lo; bà nên nghỉ ngơi một chút; hai giờ sáng rồi còn gì.’ ‘Nhưng anh sẽ đảm bảo đánh thức tôi dậy nếu có chuyện xảy ra chứ?’. ‘Vâng, vâng.’ Bà già đi khỏi, và những cô gái cũng về phòng; họ dọn một cái giường cho tôi trong phòng khách. Chà, tôi lên giường nằm - nhưng lạ thật, tôi không ngủ được! vì thật sự là tôi đã rất mệt. Tôi không thể đẩy bệnh nhân của tôi ra khỏi đầu. Cuối cùng tôi không thể chịu đựng thêm được nữa; tôi trở dậy bất thình lình; tôi thầm nghĩ, ‘mình sẽ sang xem tình hình bệnh nhân thế nào.’ Phòng ngủ của nàng ở ngay cạnh phòng khách. Chà, tôi trở dậy, và khẽ khàng mở cửa - trái tim tôi mới rộn ràng làm sao! Tôi nhòm vào: cô hầu đã ngủ, miệng há to, và thậm chí còn đang ngáy, khổ thân! nhưng bệnh nhân nằm hướng mặt về phía tôi và dang rộng hai cánh tay, tội nghiệp! Tôi tiến lại gần nàng… bất thình lình nàng mở mắt ra và chòng chọc nhìn tôi! ‘Ai đấy? Ai đấy?’ Tôi bối rối. ‘Xin đừng hốt hoảng, thưa cô,’ tôi nói; ‘tôi là bác sĩ; tôi sang xem cô thế nào.’ ‘Bác sĩ đấy ư?’ ‘Vâng, bác sĩ; mẹ cô đã cho gọi tôi từ thị trấn; chúng tôi đã lấy máu cho cô, thưa cô; bây giờ xin cô hãy ngủ cho, và trong vòng một hai hôm nữa, ơn Chúa! chúng tôi sẽ giúp cho cô lại đứng dậy được.’ ‘À, vâng, vâng, thưa bác sĩ, xin đừng để tôi chết… làm ơn, làm ơn.’ ‘Sao cô lại nói thế? Chúa phù hộ cho cô!’ Nàng lại lên cơn sốt rồi, tôi thầm nghĩ; tôi bắt mạch cho nàng; vâng, nàng hâm hấp sốt. Nàng nhìn tôi, và rồi nắm lấy bàn tay tôi. ‘Tôi sẽ nói cho ông biết tại sao tôi không muốn chết: tôi sẽ nói cho ông biết… Bây giờ chỉ có hai ta; và chỉ, ông làm ơn đừng… không với bất cứ ai… Nghe đây…’. Tôi cúi xuống; nàng đưa đôi môi lại rất gần tai tôi; mái tóc nàng vuốt ve má tôi - thú thật lúc đó đầu óc tôi đã quay cuồng - và bắt đầu thì thầm… tôi không hiểu gì cả… A, nàng mê sảng!… Nàng cứ thì thầm như thế, nhưng rất nhanh, tựa hồ không phải đang nói tiếng Nga; cuối cùng nàng cũng thì thầm xong, rùng mình buông rơi đầu xuống gối, và hăm dọa tôi bằng ngón tay trỏ: ‘Nhớ nhé, bác sĩ, đừng nói với ai đấy.’ Tôi giúp nàng trấn tĩnh lại, lấy đồ uống cho nàng, đánh thức cô hầu dậy, rồi đi ra.”

Minh họa: Đặng Mậu Tựu


Kể đến đây bác sĩ lại hít thuốc lá thật lực, rồi như mê đắm vì phê thuốc.

“Tuy nhiên,” anh ta kể tiếp, “ngày hôm sau, trái với những kỳ vọng của tôi, bệnh nhân lại không khá hơn. Tôi cứ nghĩ mãi, và bất thình lình đi đến quyết định rằng sẽ ở lại, ngay dù các bệnh nhân khác có đang mong chờ tôi... Và ông cũng biết là người ta không thể xem thường chuyện đó; nếu làm thế uy tín nghề nghiệp sẽ bị tổn hại. Nhưng, thứ nhất, bệnh nhân đó thật sự đang lâm nguy; thứ hai, nói thật, tôi cảm thấy bị nàng thu hút mãnh liệt. Vả chăng, tôi quý toàn bộ cái gia đình này. Dẫu nghèo, nhưng tôi có thể nói họ là những con người rất có giáo dục... Cha họ sinh thời là người có học thức, một tác giả; ông ấy chết, dĩ nhiên, trong nghèo khổ, nhưng trước khi chết đã cố gắng cho các con mình được học hành tử tế; ông ấy cũng để lại rất nhiều sách. Không biết có phải vì tôi chăm sóc cho người ốm cẩn thận thật sự, hay vì lý do nào khác, mà tôi dám mạo muội nói rằng cả gia đình đó đều yêu quý tôi như thể tôi là người nhà của họ... Trong khi đó đường sá lại còn xấu hơn trước; tất cả những sự liên lạc, có thể nói thế, đều bị cắt đứt hoàn toàn; thậm chí thuốc men cũng khó khăn mới từ thị trấn đến được... Cô gái ốm không khá hơn... Hết ngày này sang ngày khác, và lại hết ngày này sang ngày khác... nhưng... đây...” (bác sĩ dừng lời một chốc.) “Thú thật tôi không biết phải kể với ông thế nào.”... (Anh ta lại hít thuốc lá, ho, và uống một ngụm trà). “Tôi sẽ kể cho ông nghe chuyện ngay mà không vòng vo dê ngỗng. Bệnh nhân của tôi... tôi nên nói thế nào nhỉ?... Chà, nàng phải lòng tôi... hay, không, không phải nàng phải lòng... tuy nhiên... thật là, người ta nên nói thế nào nhỉ?” (Bác sĩ nhìn xuống và đỏ mặt lên.) “Không,” anh ta vội vàng nói tiếp, “yêu, thực vậy! Một người đàn ông không nên tự đánh giá mình quá cao. Nàng là cô gái có giáo dục, thông minh và đọc nhiều sách, còn tôi thì người ta có thể nói là đã quên hết vốn tiếng Latin. Về vẻ bề ngoài” (bác sĩ mỉm cười tự ngắm mình) “tôi cũng chả có gì để huênh hoang. Nhưng Chúa Toàn Năng đã không tạo ra tôi là một thằng ngốc; tôi không nhầm màu đen với màu trắng; tôi cũng thấu đôi điều; ví như tôi có thể thấy rất rõ là Aleksandra Andreyevna - đó là tên nàng - không cảm thấy có tình yêu, mà có thể nói là chỉ có cảm tình - một lòng tôn trọng hay gì như thế với tôi. Dẫu chính nàng có lẽ cũng nhầm lẫn về tình cảm ấy, dù sao thì đó cũng là quan điểm của nàng; tùy ông muốn cho nó là thế nào cũng được. Nhưng,” bác sĩ nói thêm, anh ta đã nói ra tất cả những câu rời rạc trên mà không lấy hơi, rõ ra cái chiều lúng túng, “hình như tôi kể hơi lung tung - kể thế thì ông hiểu thế nào... Xin phép ông cho tôi được thuật lại tất cả một cách có trật tự.”

Anh ta uống cạn ly trà, và bắt đầu bằng giọng đã bình tĩnh hơn.

“Chà, thế này. Bệnh nhân của tôi cứ yếu dần đi. Thưa ông, ông không phải bác sĩ; ông không hiểu được điều gì vụt qua trái tim của một gã tội nghiệp như thế đâu, đặc biệt khi gã bắt đầu ngờ rằng căn bệnh đang áp đảo gã. Có chuyện gì xảy ra với niềm tin trong lòng gã vậy? Ông bất thình lình trở nên rất rụt rè; tôi không biết phải miêu tả thế nào. Bấy giờ ông tưởng ông đã quên hết mọi điều ông biết, và bệnh nhân không tin ông, những người khác cũng bắt đầu để ý xem ông rối trí thế nào, và miễn cưỡng nói cho ông biết các triệu chứng; rằng họ đang nghi ngờ nhìn ông, thì thầm... A! Thật kinh khủng! Phải có một phương thuốc, ông nghĩ, chữa căn bệnh này, chỉ cần người ta tìm được nó. Không phải thuốc này sao? Ông thử - không, không phải! Ông không chờ cho thuốc có đủ thời gian để phát huy tác dụng... Ông chộp lấy cái này, rồi lại chộp lấy cái kia. Có khi ông cầm một cuốn sách kê toa thuốc lên - nó đây rồi, ông nghĩ! Có khi, ôi Trời, ông hú họa lấy đại một cuốn ra, nghĩ mặc kệ cho số phận... Nhưng trong khi đó có một người đang hấp hối, và bác sĩ khác hẳn sẽ cứu sống được anh ta. ‘Chúng ta phải hội ý,’ ông nói; ‘tôi sẽ không gánh trách nhiệm lên lưng tôi đâu.’ Và nom ông mới ngu ngốc làm sao vào những lúc như thế! Chà, đến lúc rồi ông cũng sẽ học được cách chịu đựng chuyện đó thôi; ông sẽ chẳng làm sao cả. Một người đã chết - nhưng đó không phải lỗi của ông; ông đã điều trị theo đúng các quy tắc. Nhưng điều hành hạ ông còn tàn nhẫn hơn nữa là thấy người ta mù quáng tin vào ông, còn ông thì tự cảm thấy mình không thể giúp được gì. Ôi, cả gia đình Aleksandra Andreyevna đã đặt chính niềm tin mù quáng đó vào tôi; họ quên nghĩ rằng con gái họ đang gặp nguy hiểm. Cả tôi về phía mình cũng đảm bảo với họ là không có gì nghiêm trọng, nhưng nói thế mà tim tôi như chết lặng. Để làm khổ chúng tôi hơn nữa, đường sá lại còn ở trong tình trạng khiến cho người đánh xe phải đi suốt nhiều ngày liền mới lấy được thuốc. Và tôi không lúc nào rời khỏi phòng bệnh nhân; tôi không thể bỏ ra ngoài; tôi kể chuyện vui cho nàng nghe, ông biết không, và chơi bài với nàng. Ban đêm tôi canh chừng ở bên cạnh nàng. Bà mẹ già cảm ơn tôi với những giọt lệ trong đôi mắt; nhưng tôi thầm nghĩ, ‘tôi không xứng đáng với lòng biết ơn của bà.’ Tôi thẳng thắn thú nhận với ông - bây giờ có giấu giếm cũng chẳng để làm gì - tôi đã phải lòng bệnh nhân của tôi. Và Aleksandra Andreyevna cũng yêu quý tôi; có đôi khi nàng không cho ai vào phòng ngoại trừ tôi. Nàng bắt đầu nói chuyện với tôi, hỏi tôi những câu hỏi; tôi đã học ở đâu, tôi sống thế nào, người thân của tôi là những ai, tôi hay đến thăm những ai. Tôi cảm thấy nàng không nên nói chuyện; nhưng cấm nàng - kiên quyết cấm nàng thì, ông biết không - tôi không thể. Thỉnh thoảng tôi lại ôm đầu bằng hai bàn tay, và tự hỏi, ‘Mày đang làm gì vậy, thằng đểu?’... Và nàng sẽ nắm bàn tay tôi, trao cho tôi một cái nhìn thật lâu, và quay đi, thở dài, nói, ‘Ông mới tốt làm sao!’ Đôi bàn tay nàng sốt nóng bừng bừng, đôi mắt nàng thật lớn và mỏi mệt... ‘Vâng,’ nàng nói, ‘ông là người tốt bụng, tử tế; ông không giống như những người hàng xóm của chúng tôi... Không, ông không giống thế... Tại sao đến tận bây giờ tôi mới biết ông!’ ‘Aleksandra Andreyevna, xin hãy bình tĩnh lại,’ tôi nói... ‘Tôi cảm thấy, tin tôi đi, tôi không biết làm sao tôi đã giành được... nhưng đấy, xin hãy bình tĩnh... Tất cả rồi sẽ ổn cả thôi; cô sẽ khỏe lại.’ Và trong khi đó tôi phải nói với ông,” bác sĩ tiếp tục, vừa chồm tới trước và nhướng mày, “rằng họ rất ít hòa hợp với hàng xóm, vì những người bé mọn hơn không ngang hàng với họ, và lòng kiêu hãnh ngăn không cho họ thân thiện với người giàu. Tôi nói cho ông biết thế này nhé, họ là một gia đình có học thức rất cao; nên ông cũng biết là điều đó thật làm tôi phấn khởi như thế nào. Nàng chỉ uống thuốc từ tay tôi... nàng nhổm dậy, tội nghiệp, với sự trợ giúp của tôi, uống thuốc, và đăm đăm nhìn tôi... Tim tôi có cảm giác như sắp nổ tung. Và trong khi đó nàng ngày càng yếu đi, không ngừng ngày càng yếu đi; nàng sắp chết, tôi thầm nghĩ; không còn cách gì cứu vãn được. Tin tôi đi, tôi sẵn lòng xuống mồ thay cho nàng; và đây là mẹ và các chị nàng đang canh chừng tôi, nhìn vào mắt tôi... và niềm tin họ đặt vào tôi đang suy giảm. ‘Sao? Cô ấy thế nào?’ ‘Ồ, không sao, không sao!’ Không sao, quả vậy! Tâm trí tôi rối bời. Chà, một đêm tôi lại ngồi một mình bên cạnh bệnh nhân của tôi. Cô hầu gái cũng ngồi đó, nhưng ngáy khò khò; dù vậy tôi không thể thấy cô gái tội nghiệp đó có lỗi gì; cô ấy cũng kiệt sức rồi. Aleksandra Andreyevna đã cảm thấy rất không khỏe suốt cả buổi tối; nàng sốt rất cao. Cho đến nửa đêm nàng cứ vật mình không ngớt; cuối cùng nàng dường như đã chìm vào giấc ngủ; ít nhất là nằm im không cựa quậy. Ngọn đèn cháy sáng trong góc trước ảnh thánh. Ông biết không, tôi gục đầu ngồi đó; tôi thậm chí còn ngủ lơ mơ một chút. Bất thình lình tôi cảm thấy như thể có ai đó chạm vào người mình; tôi quay lại... Ôi Chúa nhân từ ơi! Aleksandra Andreyevna đang đăm đăm nhìn tôi bằng đôi mắt chăm chú... đôi môi nàng hé mở, hai má nàng dường như đang bốc cháy. ‘Có chuyện gì vậy?’ ‘Bác sĩ ơi, tôi sắp chết rồi phải không?’ ‘Ôi thiên đường đầy lòng thương xót!’ ‘Không, bác sĩ, không; làm ơn xin đừng nói với tôi rằng tôi sẽ sống... xin đừng nói thế... Giá mà ông biết... Nghe đây! vì Chúa xin đừng giấu giếm tình trạng thật của tôi,’ và nàng thở dồn dập. ‘Nếu có thể biết chắc rằng không thể cứu tôi được nữa... thì tôi sẽ nói cho ông biết tất cả - tất cả!’ ‘Aleksandra Andreyevna ơi, tôi xin cô!’ ‘Nghe đây; tôi đã không ngủ chút nào... Tôi đã nhìn ông rất lâu... Vì Chúa!... Tôi tin ông; ông là người tốt bụng, lương thiện; tôi van xin ông nhân danh tất cả những gì là thiêng liêng nhất trên cõi đời này - hãy nói cho tôi biết sự thật! Giá ông biết điều đó quan trọng với tôi nhường nào... Thưa bác sĩ, vì Chúa xin hãy nói cho tôi biết... Tôi đang gặp nguy hiểm có phải không?’ ‘Chúa ơi, tôi biết nói gì với cô đây, Aleksandra Andreyevna?’ ‘Vì Chúa, tôi van ông!’ ‘Tôi không thể giấu không cho cô biết,’ tôi nói, ‘Aleksandra Andreyevna; tất nhiên là cô đang gặp nguy hiểm; nhưng Chúa đầy lòng trắc ẩn.’ ‘Tôi sắp chết, tôi sắp chết.’ Và nàng dường như lấy làm hài lòng, mặt mày rạng rỡ; tôi hốt hoảng. ‘Đừng lo, đừng lo! Tôi không sợ chết chút nào đâu.’ Nàng bất thình lình ngồi dậy tựa mình lên khuỷu tay. ‘Bây giờ... vâng, bây giờ thì tôi có thể nói với ông rằng tôi cảm ơn ông bằng toàn bộ trái tim tôi... rằng ông tử tế và tốt bụng - rằng tôi yêu ông!’ Tôi tròn mắt nhìn nàng, như người bị quỷ ám; điều đó thật kinh khủng với tôi, ông biết không. ‘Ông có nghe không, tôi yêu ông!’ ‘Aleksandra Andreyevna, làm sao tôi xứng đáng...’ ‘Không, không, ông không - ông không hiểu tôi.’... Và bất thình lình nàng dang hai cánh tay ra ôm đầu tôi trong hai bàn tay và hôn tôi... Tin tôi đi, suýt nữa thì tôi đã hét lớn lên... Tôi quỳ sụp xuống hai đầu gối và vùi đầu vào gối. Nàng không nói gì; những ngón tay nàng run rẩy trong tóc tôi; tôi lắng nghe; nàng đang khóc. Tôi bắt đầu dỗ dành, trấn an nàng... Tôi thật sự không biết mình đã nói gì với nàng. ‘Khéo cô đánh thức cô hầu gái dậy bây giờ,’ tôi nói với nàng; ‘Aleksandra Andreyevna, tôi cảm ơn cô... xin hãy tin tôi... bình tĩnh lại nào.’ ‘Đủ rồi, đủ rồi!’ nàng khăng khăng; ‘đừng bận tâm đến tất cả bọn họ; cứ để cho họ thức dậy; cứ để cho họ vào đây - điều đó thì quan trọng gì; tôi sắp chết, ông thấy đấy... Và ông sợ gì vậy? Tại sao ông lại sợ? Ngước đầu lên nào... Hay, có lẽ, ông không yêu tôi; có lẽ tôi đã nhầm... Nếu vậy, xin hãy thứ lỗi cho tôi.’ ‘Aleksandra Andreyevna, cô đang nói gì vậy!... Tôi yêu cô, Aleksandra Andreyevna.’ Nàng nhìn thẳng vào mắt tôi, và dang rộng hai cánh tay. ‘Thế thì ôm tôi vào vòng tay ông đi nào.’ Xin được nói thẳng với ông thế này, tôi không biết làm sao đêm hôm đó tôi lại không phát điên. Tôi cảm thấy bệnh nhân của tôi đang tự giết chết chính nàng; tôi thấy nàng không hoàn toàn tỉnh táo; tôi cũng hiểu rằng nếu không tự xem mình là sắp chết, thì nàng sẽ không bao giờ nghĩ đến tôi; và, quả thực, dù ông có nói gì đi chăng nữa, thật khó khăn nếu phải chết ở tuổi hai mươi khi người ta chưa biết đến tình yêu; đây là điều đã hành hạ nàng; đây là lý do vì sao, trong tuyệt vọng, nàng đã vồ lấy tôi - bây giờ ông hiểu chưa? Nhưng nàng ôm tôi trong vòng tay, và không buông tôi ra nữa. ‘Xin hãy thương tôi, Aleksandra Andreyevna, và thương lấy chính bản thân cô,’ tôi nói. ‘Tại sao,’ nàng nói; ‘có gì mà phải nghĩ? Ông biết là không còn cách gì cứu được tôi nữa rồi kia mà.’... Câu này nàng không ngừng nhắc đi nhắc lại... ‘Nếu biết rằng tôi sẽ quay trở lại với cuộc sống, và lại là một quý cô trẻ tuổi đích thực, thì tôi sẽ xấu hổ... dĩ nhiên, xấu hổ... nhưng bây giờ thì tại sao?’ ‘Nhưng ai nói rằng cô sắp chết?’ ‘Ồ, không, thôi đi! đừng lừa dối tôi nữa; ông không biết cách nói dối đâu - nhìn mặt ông xem.’... ‘Cô sẽ sống, Aleksandra Andreyevna; tôi sẽ chữa khỏi cho cô; chúng ta sẽ xin mẹ cô ban ơn phước... chúng ta sẽ được kết hợp - chúng ta sẽ hạnh phúc.’ ‘Không, không, tôi có lời của ông; không thể cứu sống tôi được nữa... ông đã hứa với tôi... ông đã nói với tôi.’... Thật tàn nhẫn với tôi - tàn nhẫn vì nhiều lẽ. Và hãy xem thỉnh thoảng những điều vặt vãnh có thể làm được những gì; dường như không hề có gì cả, nhưng đầy đau đớn. Nàng bỗng nhiên hỏi tên tôi là gì; không phải họ, mà là tên tôi. Tôi hẳn phải rất không may nên mới bị gọi là Trifon. Vâng, đúng vậy; Trifon Ivanich. Mọi người trong ngôi nhà đó đều gọi tôi là bác sĩ. Tuy nhiên, cũng đành phải chịu như thế thôi. Tôi nói, ‘Trifon, thưa cô.’ Nàng nhíu mày, lắc đầu, và lẩm bẩm điều gì đó bằng tiếng Pháp - a, điều gì đó khó chịu, dĩ nhiên! - và rồi nàng cười - cũng không phải dễ chịu gì. Chà, tôi đã qua cả đêm hôm đó với nàng như thế đấy. Tôi ra khỏi phòng trước khi trời sáng, cảm thấy như thể mình đã bị điên. Trời đã tỏ khi tôi lại vào phòng nàng, sau bữa trà sáng. Ôi Chúa nhân từ! Tôi hầu như không thể nhận ra nàng nổi nữa; người đã nằm dưới mồ trông còn khá hơn. Bây giờ, tôi xin thề với ông, trên danh dự của tôi, tôi không hiểu - tôi tuyệt đối không hiểu - làm sao mình đã sống qua được trải nghiệm đó. Bệnh nhân của tôi thoi thóp ba ngày ba đêm. Và những đêm thế nào chứ! Nàng đã nói với tôi những điều thế nào chứ! Và vào đêm cuối cùng - ông hãy tự tưởng tượng lấy - tôi đang ngồi cạnh nàng, và cứ cầu nguyện Chúa xin một điều duy nhất: ‘Xin hãy đưa nàng đi,’ tôi nói, ‘cho nhanh, và cho cả con cùng đi với nàng.’ Bất thình lình bà mẹ già đột nhiên vào phòng. Tối hôm trước đó tôi đã nói cho bà mẹ ấy biết rằng còn rất ít hy vọng, và nên cho gọi một linh mục. Cô gái ốm nói khi thấy mẹ: ‘Thật hay khi mẹ vào thế này; hãy nhìn chúng con, chúng con yêu nhau - chúng con đã ngỏ lời với nhau.’ ‘Nó nói gì vậy, bác sĩ? nó nói gì vậy?’ Tôi tái mặt. ‘Cô ấy đang mê sảng,’ tôi nói; ‘sốt cao quá.’ Nhưng nàng: ‘Suỵt, suỵt; ông vừa mới nói với tôi điều hoàn toàn khác, và đã nhận nhẫn của tôi. Tại sao ông lại giả vờ? Mẹ tôi tốt lắm - bà ấy sẽ tha thứ - bà ấy sẽ hiểu... - và tôi sắp chết... Tôi không cần phải nói dối; đưa bàn tay ông cho tôi nào.’ Tôi đứng bật dậy chạy ra khỏi phòng. Bà già ấy, dĩ nhiên, đã đoán được chuyện là thế nào.

“Tuy nhiên, tôi sẽ không làm ông mệt mỏi thêm nữa, và dĩ nhiên, chính tôi cũng rất đau lòng khi phải nhớ lại tất cả những chuyện này. Hôm sau thì bệnh nhân của tôi qua đời. Cầu Chúa cho linh hồn nàng được yên nghỉ!” Bác sĩ thêm, nói nhanh và với một tiếng thở dài. “Trước khi mất nàng bảo gia đình đi ra ngoài để trong phòng chỉ còn lại mình tôi với nàng.”

“‘Thứ lỗi cho tôi,’ nàng nói; ‘có lẽ tôi có lỗi với ông... tôi ốm yếu... nhưng xin hãy tin tôi, tôi chưa bao giờ yêu ai hơn ông... xin đừng quên tôi... hãy giữ chiếc nhẫn của tôi.’”

Bác sĩ quay đi; tôi nắm lấy bàn tay anh ta.

“Thôi!” Anh ta nói, “chúng ta nói chuyện khác đi nào, hay ông muốn chơi bài ăn ít tiền chăng? Mở đường cho những tình cảm cao quý không phải là việc dành cho những người như tôi. Tôi chỉ còn duy nhất một chuyện để nghĩ; làm sao cho các con tôi đừng khóc và vợ tôi đừng chửi. Từ đó, ông biết không, tôi đã kịp bước chân vào tình trạng có vợ một cách hợp pháp, như người ta nói... Ôi... Tôi cưới con gái của một thương nhân - của hồi môn của cô ta những bảy nghìn. Tên cô ta là Akulina; nó hợp với tên Trifon. Cô ta là mụ đàn bà xấu tính, tôi phải nói vậy với ông, nhưng may sao lại ngủ suốt ngày... Thế nào, chơi bài chứ?”

Chúng tôi ngồi xuống chơi bài ăn nửa xu. Trifon Ivanich thắng của tôi hai rúp rưỡi, và về nhà muộn, rất hài lòng với thành công của mình.

I.S.T
(TCSH437/07-2025)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Tin nổi bật
  • S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.

  • WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?

  • SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.

  • SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar  trong một gia đình nông dân  thuộc  tập đoàn sản  xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan  trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.

  • MISHIMA YUKIO (Nhật Bản)Nhà văn Nhật Bản Mishima Yukio (1925 - 1970) bắt đầu in các tác phẩm của mình từ những năm 20 tuổi. Ông được tặng nhiều giải thưởng văn học và ba lần được đề cử vào giải Nobel văn chương.

  • PAUXTÔPXKIChúng ta yêu mến thứ ánh sáng bảo hiểm của những ngọn hải đăng nhưng ít khi nhìn thẳng vào nó. Thường chỉ có những người bảo vệ và các tay lái tàu dán mắt vào hải đăng để kiểm tra bí mật độ loé sáng của nó. Bởi vì tất cả hải đăng trên biển đều nháy và nhấp nhánh khác nhau, theo những tín hiệu đó, người ta có thể biết được hải đăng nào và con tàu đang ở đâu.

  • SLAWOMIR MROZEK (Ba Lan)(Lê Bá Thự dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan)

  • ALPHONSE DAUDETSự kiện phản ánh trong truyện xảy ra năm 1871, thời kỳ chiến tranh Pháp - Phổ, khi quân đội Phổ (Đức) đã chiếm đóng và sáp nhập hai tỉnh Alsace và Lorraine của Pháp vào lãnh thổ Đức.

  • DOMINIQUE DE VILLEPINTác giả Dominique de Villepin, sinh năm 1953, đương kim Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, là người phát ngôn cho chính sách hòa bình đối lập với đường lối chiến tranh Bush-Blair trong vụ tập kích Irak đầu năm 2003. Nơi đầu sóng ngọn gió của bang giao quốc tế, ông đã đồng thời cho xuất bản một khảo luận về Thơ, Ngợi ca những Người Cướp Lửa, tượng trưng cho Người Làm Thơ, qua hình ảnh mượn của Arthur Rimbaud, lấy từ huyền thoại Prométhée.

  • MARK TWAINTwain, Mark, (Samuel Langhorne Clemens), nhà văn Mỹ, (1835-1910). Sinh tại Florida, bang Missouri. Là con thứ tư trong một gia đình thương nhân nghèo. Chưa đầy 12 tuổi, Clemens đã phải thôi học để học nghề sắp chữ in, rồi làm đủ nghề. Năm 1853, bị thôi thúc bởi ý muốn tìm hiểu thế giới, lên đường đi nhiều nơi, làm thợ in công nhật ở St. Louis, New York và Philadelphia. Đến sông Mississipi, hành trình dự kiến đi Brazil bị đình lại vì Clemens lại mơ ước trở thành hoa tiêu trên sông.

  • HARUKI MURAKAMI (Nhật Bản)Chàng và nàng đang đi trên một con đường. Dọc bãi tha ma. Lúc nửa đêm. Sương mờ vây phủ. Họ tuyệt nhiên không định đi ở nơi chốn này vào lúc này. Nhưng vì các nguyên do khác nhau họ đã buộc phải đi. Họ bước vội vàng, nắm chặt tay nhau.

  • GRAHAM GREENE (Anh)Có tám người đàn ông Nhật đang ăn bữa tối ở nhà hàng cá nổi tiếng Bentley's. Họ chỉ trao đổi với nhau dăm ba câu bằng thứ tiếng mẹ đẻ khó hiểu của họ, nhưng luôn có nụ cười nhã nhặn và thường mỗi câu lại kèm một cử chỉ cúi đầu lịch thiệp. Tất cả tám người, trừ có một, đều đeo kính. Thỉnh thoảng cô gái xinh đẹp ngồi phía cửa sổ lại đưa một cái nhìn lướt qua họ, nhưng xem ra chuyện của cô ta quá quan trọng, khiến cô ta không thể thực sự chú ý tới bất kỳ ai trên đời ngoài chính mình và người ngồi cùng bàn.

  • VICTORIA CHIE (ÚC)Cảm giác xấu hổ như kẻ đang làm điều mờ ám, Anne Peterson đặt bút run run ghi tên mình vào phần trống trong bản tự giới thiệu của văn phòng môi giới hôn nhân. Chẳng lẽ lại đến nông nổi này sao? 49 tuổi, trông còn rất trẻ, duyên dáng, đầy sức sống, thành đạt, vật chất đầy đủ, đã ly dị, thế mà phải nhờ môi giới kiếm cho một tấm chồng. Mà anh ta là ai, cũng là một kẻ nào đấy tìm đến đây với những dòng tự giới thiệu cứng nhắc. Thôi, đành vậy chứ biết sao, chỉ vì quá yêu con gái Cindy mà Anne đã phải chịu đựng nỗi trống trải cô đơn ròng rã suốt bao năm trời.

  • NGÔ KIM LƯƠNG (Trung Quốc)"Nếu còn gặp người, nhất định phải nói", Trần Tĩnh đang nghĩ, ngước mắt lên nhìn ánh đèn vàng vọt trong ngõ nhỏ. Đêm khuya rồi, khắp nơi là hình ảnh kỳ quái của một màn đêm đen kịt. "Ai cha! Chiếc xe đạp xui xẻo này!" - Cô đẩy chiếc xe, không biết phải nói thế nào.Sau lưng vang lên một hồi chuông xe đạp, Trần Tĩnh "ai cha" một tiếng, chàng trai cưỡi xe đạp đã lướt vèo qua rồi.

  • S.MROZEKCó một lần tôi đi du lịch.Vì không có tàu trực tiếp đến nơi tôi cần tới nên tôi phải xuống một ga dọc đường để chuyển sang tàu khác.Hôm đó là một buổi tối. Mãi sáng hôm sau con tàu tiếp theo tôi sẽ phải đi mới đến.Tôi rời nhà ga, vào thị trấn để kiếm nơi ở trọ.

  • JOYCE BEGG (Úc)Bà Firbank trở thành hàng xóm của chúng tôi đã lâu, dễ đến sáu bảy năm nay, nhưng thật sự trong chúng tôi chẳng ai dám khẳng định mình biết rõ về người đàn bà này. Xung quanh bà ta lúc nào cũng bao phủ một bầu không khí bí hiểm, ma quái, ngay cả toà dinh thự cổ của bà ta cũng gợi cho người ta cái vẻ rờn rợn, lạnh lẽo giống như nơi trú ẩn của những linh hồn cõi âm.

  • KRISHNAN VARMAKrishnan Varma sinh ở Kerala, Ấn Độ. Ông viết bằng hai thứ tiếng Anh và Malayalam. Trong nhiều tác phẩm của mình, ông chia sẻ sự quan sát đối với cuộc sống của lớp người cùng khổ trên đất nước ông.

  • ARTURO VIVANTELời giới thiệu: Nhà văn Arturo Vivante sinh năm 1923 ở Rome, tốt nghiệp cử nhân đại học McGill, Canada, 1945, tốt nghiệp y khoa đại học Rome, 1949. Ông hành nghề bác sĩ toàn khoa, đồng thời sinh hoạt và nghiên cứu về văn chương ở một số trường đại học Mỹ. Vivante là nhà văn rất nổi tiếng với các truyện cực ngắn và các giai thoại.

  • KÔNXTANTIN PAUXTÔPXKI Mùa Thu. Những hạt sương mai tháng Chín lạnh giá, mọng nước rơi tung tóe từ những tán lá trên cao xuống và bắn cả vào người tôi. Sương từ các nhành cây nhỏ giọt xuống mặt nước sông đen thẫm, tạo thành những vòng tròn và chậm rãi lan ra xung quanh.

  • LTS: Mario Bendetti sinh tại Paso de los Toros (Tacuarembó ) ngày 14 tháng 9 năm 1920. Ông theo học tại trường tiểu học tiếng Đức ở Montevideo và trường trung học Miranda, đã từng làm nhiều nghề như nhân viên bán hàng, tốc kí, kế toán, viên chức nhà nước và phóng viên. Từ năm 1938 đến 1941 ông sống chủ yếu ở Buenos Aires . Năm 1945, khi trở về Montevideo, ông viết bài cho tuần báo nổi tiếng Marcha, qua đó trở thành phóng viên bên cạnh Carlos Quijano và rồi trở thành một thành viên trong ê-kíp của ông này cho tới tận năm 1974 khi tuần báo ngừng xuất bản.Năm 1973, vì lí do chính trị, ông phải rời bỏ tổ quốc,bắt đầu cuộc sống lưu vong kéo dài mười hai năm ở những quốc gia: Ác-hen-ti- na và Tây Ban Nha. Quãng thời gian này đã để lại những dấu ấn vô cùng sâu sắc trong cuộc đời ông cũng như trong văn nghiệp.