Bản sắc văn hóa Việt trong tiểu thuyết lịch sử của Phùng Văn Khai

09:43 25/09/2020

1. Quan sát tiểu thuyết Việt Nam đương đại, chúng ta sẽ nhận thấy có một số triều đại, nhân vật được các nhà văn tập trung khai khác với mật độ khá dày như nhà Trần với Trần Khánh Dư, Trần Hưng Đạo (xuất hiện trong Sương mù tháng giêng của Uông Triều, Trần Khánh Dư của Lưu Sơn Minh, Chim ưng và chàng đan sọt của Bùi Việt Sĩ, Đức Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh…), nhà Lê với Nguyễn Trãi (xuất hiện trong Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Trãi của Bùi Anh Tấn…), nhà Tây Sơn với Nguyễn Huệ (xuất hiện trong Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh…).

Trong khi đó lại có những triều đại, nhân vật lịch sử vẫn là những “khoảng trắng”, chưa và ít được các nhà văn để ý đến, đặc biệt là những triều đại và nhân vật trước cột mốc lịch sử 938. Ý thức được việc lấp đầy những khoảng trắng này vừa là bổn phận, trách nhiệm của con cháu đối với công ơn của các bậc tiên liệt vừa mở ra những hướng tiếp cận khác cho đề tài lịch sử, trong vòng 5 năm trở lại đây, nhà văn Phùng Văn Khai đã xuất bản liên tiếp ba tiểu thuyết Phùng Vương (Nxb Hội Nhà văn, 2015), Ngô Vương (Nxb Văn học, 2018) và Nam Đế Vạn Xuân (Nxb Văn học, 2020) viết về Phùng Hưng, Ngô Quyền, Lý Nam Đế - những bậc anh hùng lừng lẫy trong lịch sử dân tộc mà cho đến nay vẫn hiển diện một cách mờ nhạt trong văn học Việt.

Với bộ ba tiểu thuyết này, Phùng Văn Khai đã có cú “lội ngược dòng” lịch sử trên phương diện thi pháp thể loại. Việc trở lại với một trong những hình thức “nguyên thủy” của tiểu thuyết là chương hồi là hướng tiếp cận khá thú vị và đầy bất ngờ của Phùng Văn Khai. Tiểu thuyết chương hồi với đặc trưng cơ bản là diễn tiến cốt truyện tuân theo thời gian tuyến tính có thể giúp bạn đọc tiếp thu tác phẩm dễ dàng hơn trong bối cảnh nhịp sống xã hội đang ngày càng hối hả, gấp gáp như hiện nay. Tuy nhiên đây không phải là vấn đề đáng quan tâm nhất trong tiểu thuyết lịch sử Phùng Văn Khai.

Điểm cốt yếu trong bộ ba tiểu thuyết này, theo tôi là cái cách anh miêu tả và tái hiện lịch sử. Lịch sử qua ngòi bút của Phùng Văn Khai không chỉ là những câu chuyện xưa cũ, không chỉ gợi lên những vấn đề của xã hội đương đại hôm nay mà lịch sử còn chính là văn hóa. Trong bộ ba tiểu thuyết này, chúng ta bắt gặp những dòng chảy văn hóa Việt song hành cùng dòng chảy lịch sử.


2. Lịch sử quốc gia, dân tộc Việt luôn chịu tác động trực tiếp, gián tiếp của lịch sử Trung Quốc từ thuở dựng nước cho đến thời hiện đại. Đó là định mệnh của quốc gia, dân tộc mà dù muốn hay không chúng ta cũng phải chấp nhận. Trong nhiều tiểu thuyết lịch sử, các tác giả thường chỉ chú ý miêu tả đời sống chính trị - xã hội nước nhà mà bỏ qua hoặc chỉ miêu tả khái lược về đời sống chính trị - xã hội Trung Quốc cùng thời và những tác động của đời sống chính trị - xã hội đó đối với vận mệnh dân tộc. Phùng Văn Khai đã chọn cho mình một hướng tiếp cận lịch sử khác.

Anh miêu tả kĩ đời sống chính trị - xã hội Trung Quốc, đặt nó trong mối quan hệ biện chứng với đời sống chính trị - xã hội nước nhà trên cả hai bình diện vĩ mô và vi mô. Ở tầm vĩ mô, sự tan rã của nhà Đường khi xảy ra loạn An Lộc Sơn, Sử Tư Minh (Phùng Vương) là thời cơ có một không hai để họ Phùng đất Đường Lâm phất cờ tụ nghĩa; việc “thay tướng giữa dòng” của Lương Vũ Đế (Nam Đế Vạn Xuân) là “giọt nước tràn li” khiến người dân vùng Giao Châu nổi dậy dưới lời hiệu triệu của Lý Bí; chiến sự giữa nhà Hậu Đường và Hán đế Lưu Cung (Ngô Vương) là nhân tố ngoài dự kiến khiến việc xưng vương của Ngô Quyền gặp thuận lợi sau đại thắng Bạch Đằng 938.

Ở tầm vi mô, những toan tính, đấu đá chính trị trong nội bộ những viên quan Trung Quốc cai trị nước ta như giữa Cao Chính Bình và Trương Bá Nghi (Phùng Vương), giữa Tiêu Tư và Lý Tắc, Trương Húc (Nam Đế Vạn Xuân), Hoằng Tháo và Độc Toàn Chân (Ngô Vương) có ảnh hưởng trực tiếp, thậm chí quyết định đến cục diện chiến trường giữa nghĩa quân và quân xâm lược.

Tuy nhiên, theo tôi, điểm cốt lõi Phùng Văn Khai muốn nhấn đến qua những miêu tả này là sự khác biệt giữa văn hóa chính trị của hai quốc gia, dân tộc. Đối lập với văn hóa chính trị mang tính chất áp đặt, tự nhận là trung tâm thế giới, coi thiên hạ bên ngoài đều là chư hầu, thuộc địa của Trung Quốc là nền văn hóa chính trị uyển chuyển theo nguyên lí “miên lí tàng châm” của Việt Nam.

Văn hóa chính trị của người Việt vừa uyển chuyển, mềm mại như sợi bông vừa cương quyết, cứng rắn, mạnh mẽ và khó đoán định như mũi châm vô hình, vô ảnh. Người Việt chỉ mong sống trong hòa bình, yên ổn, không có dã tâm xâm lược, chiếm đoạt nhưng không hề yếu đuối. Sợi bông tuy mềm mại không hại ai nhưng mũi châm nhọn ẩn trong đó đủ sức làm đau, làm chùn ý định chiếm đoạt của bất cứ thế lực nào.

Khi Sĩ Nhiếp dùng đức phục chúng, không làm phương hại đến dân tộc, quốc gia, người Việt tôn làm Nam Giao học tổ, còn khi những kẻ cuồng hãn như Triệu Tư, Cao Chính Bình, Hoằng Tháo đem vũ lực hòng trấn áp, cướp bóc, giết hại thì ngay lập tức chúng vấp phải những đòn đáp trả sấm sét của dân tộc Việt.

Những đòn đáp trả đủ “độ” để vừa giành lại độc lập tự do cho dân tộc, vừa đảm bảo tình hòa hiếu, “thể diện” cho thiên triều nhằm tránh họa binh đao sau này như cái cách Lý Bí tha cho tướng giặc Thạch Đạt (Nam Đế Vạn Xuân), Phùng Hưng lấy thành Tống Bình khi Cao Chính Bình ốm chết (Phùng Vương). Có thể nói, nguyên lí “miên lí tàng châm” đã toát lên cái sâu sắc, miên viễn, linh hoạt, tinh tế trong văn hóa chính trị của người Việt. Một nền văn hóa chính trị đề cao hòa bình, hòa hợp, hòa hiếu.


3. Bên cạnh văn hóa chính trị, bộ ba tiểu thuyết lịch sử của Phùng Văn Khai còn khắc họa những giá trị văn hóa truyền thống của người Việt, trong đó có văn hóa tâm linh. TS. Nguyễn Văn Hùng trong bài viết Tiểu thuyết lịch sử như là sự kiến tạo diễn ngôn dân tộc chủ nghĩa đã rất tinh và sâu sắc khi nhận thấy qua tiểu thuyết lịch sử, “Phùng Văn Khai đã nỗ lực phục dựng văn hóa Phật giáo như là nền tảng tinh thần của người phương Nam (khu vực ngoại biên) kháng cự lại văn hóa phương Bắc (khu vực trung tâm)…

Tác giả đã dày công tìm hiểu lịch sử và văn hóa Phật giáo, đặt định song hành với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc của Lý Nam Đế, hình thành nên diễn ngôn định vị văn hóa bản địa”. Nhận định trên của Nguyễn Văn Hùng mới chỉ đề cập đến phương diện tôn giáo trong tiểu thuyết lịch sử Phùng Văn Khai. Tôn giáo là một thành tố cốt lõi của bất kì nền văn hóa tâm linh của quốc gia nào.

Tuy nhiên, tiểu thuyết lịch sử của Phùng Văn Khai ngoài tôn giáo còn có những yếu tố khác của văn hóa tâm linh Việt. Để tái hiện những yếu tố văn hóa tâm linh này, Phùng Văn Khai một mặt dựa vào những tư liệu, khảo cứu dân tộc học, văn hóa học như những nghiên cứu về dòng thiền Luy Lâu, một mặt sử dụng triệt để thần thoại, truyền thuyết, huyền sử và dã sử.

Văn hóa tâm linh trong bộ ba tiểu thuyết biểu hiện trước nhất ở tín ngưỡng thờ vua Hùng, thờ Lạc Long Quân, Âu Cơ - những vị quốc tổ của người Việt (Phùng Vương, Nam Đế Vạn Xuân), thứ nữa là ở hệ thống thần và tín ngưỡng thờ thần của người Việt. Đó là những vị thần được nhân dân tôn vinh là bất tử như Chử Đồng Tử và Tản Viên sơn thánh, là hệ thống thần bản địa như thần sông Tô Lịch, thần thành Đại La… và hệ thống nhân thần vốn là những người có công với đất nước khi mất đi hóa thành thần như Bố Cái Đại Vương (Ngô Vương).

Phùng Văn Khai luôn miêu tả hai tín ngưỡng này và các bậc quốc tổ, thần đất Việt trong mối quan hệ, gắn bó với địa thế, địa hình tụ hội linh khí của dân tộc có hình dạng “trạch đắc long xà”, “phát đế xưng vương” như đất Phong Châu, đất Đường Lâm, núi Tản Viên… Sự hiển diện với tần suất dày đặc của văn hóa tâm linh trong bộ ba tiểu thuyết lịch sử có tác dụng khơi dậy ý thức về nguồn cội dân tộc một cách mạnh mẽ.

Trong Nam Đế Vạn Xuân, hình ảnh đối lập giữa ngôi đền Lạc Long Quân “khang trang, vững vàng giữa quả đồi đất lớn xung quanh là những tầng cây cổ thụ hàng lối nghiêm ngắn” với người thờ cúng đông đảo và ngôi đền thờ Sĩ Nhiếp nằm ở “cách đó không xa, trên một đồi đất rộng phía bên phải” mang một dụng ý rõ ràng. Sự đối lập giữa vị trí và vị thế của hai ngôi đền là cách Phùng Văn Khai khẳng định người Việt là một dân tộc “khu biệt” hoàn toàn không dính dáng gì với người Trung Hoa, không phải là một nhánh của người Trung Hoa xuống phía Nam kiếp sống.

Sự thất bại trong việc yểm bùa, trấn trạch long mạch nước Nam và cái chết trong đau đớn, tức tưởi của Trương Thuận khi dám mạo phạm thần Tản Viên, thần sông Tô Lịch, sự phản kháng dữ dội của nhân dân thành Đại La trước bản dụ xấc xược xúc phạm tổ tiên của Tiêu Tư là những minh chứng cho tính tôn nghiêm, toàn vẹn của nền văn hóa tâm linh Việt.

Mặt khác, Phùng Văn Khai đã để cho các nhân vật có hàng loạt “phát ngôn” ngợi ca nguồn cội và sự trường tồn của dân tộc từ khía cạnh văn hóa tâm linh như lời của Phùng Hạp Khanh với Vũ Khánh và con trai Công Phấn: “Tản Viên còn thì nước Nam còn, đời đời sẽ là như thế”(1), lời Phùng Hưng với chư tướng: “Phong Châu là vùng văn cốt, đất rộng, người đông, nơi xưa kia các vua Hùng từng đặt quốc đô ở đó, linh khí đất trời hưng vượng của An Nam ta cũng từ đó mà ra”(2).

Qua những phát ngôn trên, Phùng Văn Khai đã khẳng định sự vĩnh cửu và sức mạnh của nền văn hóa tâm linh dân tộc chính là nhân tố quyết định làm thất bại âm mưu “đồng hóa”, cai trị người Việt của người Trung Quốc dù họ đã áp dụng “trăm phương nghìn kế” từ dùng nhân trị, đức trị như Sĩ Nhiếp đến pháp trị, võ trị như Tiêu Tư, Trương Thuận, Cao Chính Bình. Đây là một trong những điểm cốt lõi tạo nên giá trị cho tiểu thuyết lịch sử Phùng Văn Khai.


4. Ngoài đời sống văn hóa tâm linh, trong bộ ba tiểu thuyết lịch sử, Phùng Văn Khai còn chú trọng khai thác những giá trị văn hóa khác của dân tộc. Đó là những giá trị của nền văn hóa nông nghiệp. Nền văn hóa ấy được Phùng Văn Khai gợi nên từ những trang văn miêu tả các sản vật đặc trưng của nền văn minh lúa nước như bánh chưng, bánh dày, bánh giò, món cá rô nấu xôi (Ngô Vương), từ những phong tục, tập quán, thói quen sinh hoạt như tục săn, thuần hóa voi (Phùng Vương), từ những lễ hội truyền thống diễn ra vào mùa xuân, tháng giêng - tháng ăn chơi theo quan niệm của người Việt - như lễ hội đi cà kheo ở vùng biển, lễ hội đua thuyền, lễ hội chọi trâu (Ngô Vương) cùng những trò chơi dân gian đánh đu, chọi gà (Nam Đế Vạn Xuân).

Ngoài văn hóa nông nghiệp, văn hóa quân sự cũng là một khía cạnh đáng chú ý của bộ ba tiểu thuyết lịch sử kể trên. Ở phương diện đối kháng cá nhân, người Việt nổi tiếng với môn võ vật truyền thống. Những trận đấu giữa sới vật ngày xuân trong Nam Đế Vạn Xuân đã tái hiện những miếng vật cổ truyền, bí hiểm của cha ông dựa trên hình thể của mình nhằm khuất phục những đối thủ to lớn hơn.

Về lực lượng tác chiến, Phùng Văn Khai dồn bút lực miêu tả hai lực lượng quân sự trọng yếu, mang đậm bản sắc Việt trong thế đối sánh với sức mạnh của quân xâm lược là tượng binh và thủy binh. Phương Bắc cưỡi ngựa, phương Nam đi thuyền, lịch sử quân sự Việt Nam đã chứng minh thủy binh Việt là lực lượng tác chiến đặc biệt tinh nhuệ có những công lao, chiến tích “oanh liệt thiên thu” góp phần đặt “dấu chấm hết” cho các cuộc xâm lược của kẻ thù trong suốt chiều dài dựng nước và giữ nước.

Cách huấn luyện, sử dụng voi trong chiến trận của người Việt cũng có những điểm độc đáo, khác lạ làm kẻ thù khiếp sợ. Những trang viết về những chuyến đi săn, thuần hóa, huấn luyện, chiến đấu của tượng binh trong trận phục binh giết chết tướng giặc Thang Ân Bá tại núi Ngõa Cương, xéo nát quân Đường trong trận chiến giữ Đường Lâm (Phùng Vương), cách chọn gỗ để đóng thuyền, kĩ thuật đóng, cách sơn, cách huấn luyện binh sĩ và phương pháp tác chiến của thủy binh Việt trong những trận hải chiến dữ dội trên sông Bạch Đằng (Ngô Vương), ở đầm Sương Mù (Nam Đế Vạn Xuân) là những trang viết sinh động, lôi cuốn bậc nhất ở cả ba tiểu thuyết. Về nghệ thuật tác chiến, phương châm “lấy ít địch nhiều”, “lấy yếu thắng thắng mạnh” vốn là tinh hoa của nghệ thuật quân sự Việt Nam cũng được thể hiện rõ với việc điều binh khiển tướng của ba vị anh hùng Ngô Quyền, Phùng Hưng và Lý Nam Đế trong hành trình giành lại độc lập cho dân tộc.

Văn hóa chính trị, văn hóa tâm linh, văn hóa nông nghiệp và văn hóa quân sự là bốn “cột trụ” của văn hóa Việt trong bộ ba tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Phùng Văn Khai. Với ý đồ phục dựng các thiết chế văn hóa Việt trong tiểu thuyết lịch sử, tôi cho rằng cái đích sau cùng Phùng Văn Khai hướng đến không phải là câu chuyện về sự kháng cự giữa văn hóa ngoại biên (văn hóa Việt) đối với nền văn hóa trung tâm (văn hóa Trung Quốc) như nhận định của TS. Nguyễn Văn Hùng trong đoạn trích dẫn trên mà là lời khẳng định về sự bình đẳng giữa hai nền văn hóa, hai quốc gia và hai dân tộc. Đây là điểm hết sức quan thiết. Chỉ trên cơ sở bình đẳng, nước ta, dân tộc ta mới có thể tồn tại vững vàng, an nhiên bên cạnh một người láng giềng như Trung Quốc. Giá trị cốt lõi của bộ ba tiểu thuyết lịch sử mấy nghìn trang của Phùng Văn Khai, tôi nghĩ nằm ở đấy.

Nguồn: Đoàn Minh Tâm - VNQĐ

-------

1. Phùng Vương (2015), Nxb Hội Nhà văn, tr 77.

2. Phùng Vương (2015), Nxb Hội Nhà văn, tr 444.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Nhà văn Linda Lê được xem như một trong những hiện tượng sáng chói của văn chương người Việt ở nước ngoài viết bằng tiếng Pháp. Nhiều tác phẩm của bà đã được dịch và xuất bản ở Việt Nam, gần nhất là “Vượt sóng” (Phạm Duy Thiện dịch, Công ty Tao Đàn & NXB Hội Nhà văn, 2018), cuốn tiểu thuyết mà tác giả đã chất chứa rất nhiều những trầm tư sống động của một nhà văn về công việc/hành vi viết, mục đích và ý nghĩa của nó.

  • “Có hai ông sui gia nhậu với nhau, trên bàn có một dĩa lòng vịt xào với hành nho nhỏ. Ông sui gia tính ham ăn, liền thò đũa lòn nguyên dĩa gắp lên rồi giũ giũ vờ như muốn cho nó rớt xuống. Nhìn thấy vậy, ông sui kia nóng ruột nói: Anh lấy giò đạp xuống thử coi nó xuống không?”.

  • Cuốn sách “Hồi ức chiến tranh Vị Xuyên” của Thiếu tướng Nguyễn Đức Huy vừa được Tạp chí Môi trường và đô thị phối hợp với NXB Thông tin và truyền thông ra mắt độc giả tại Hà Nội.

  • Trong lịch sử Hà Nội hiện đại, có nhiều hạng người. Có công dân hạng một, hạng hai, hạng ba... cho đến lớp người bần hàn. Họ đi qua lịch sử với nhiều tư thế: "Chân ta bước, lòng ung dung tự hào", "vừa đi vừa cúi đầu ngẫm nghĩ", "sấp mặt xuống để tồn tại", cho đến cả tư thế "bò người ra để mà sống"...

  • “Tôi rất vui, vì bây giờ gia đình và bạn bè ở Việt Nam có thể đọc được tác phẩm của tôi. Giấc mơ của tôi đã trở thành sự thật”. Đó là chia sẻ của tác giả Angie Chau (thuộc thế hệ nhà văn Việt Nam thứ hai tại Hoa Kỳ) khi tập truyện ngắn Những người thầm lặng vừa được NXB Tổng hợp giới thiệu đến độc giả trong nước.

  • Đã thành truyền thống, 5 năm một lần, Bộ Quốc phòng tiến hành xét, trao Giải thưởng văn học nghệ thuật, báo chí về đề tài lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng. Trong số hàng trăm tác giả tham dự xét giải ở chuyên ngành văn học lần này (từ năm 2014 đến 2019), đáng chú ý là sự xuất hiện của các cây bút thuộc “thế hệ 7x, 8x” - những người được sinh ra và trưởng thành trong thời bình.

  • Chiều 24-2, tại Nhà hát Quân đội phía Nam, Tổng Cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đã tổ chức lễ trao Giải thưởng Văn học nghệ thuật, Báo chí đề tài lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng 5 năm (2014 - 2019) của Bộ Quốc phòng khu vực phía Nam.

  • Sáng 21-2, tại Hà Nội, Tổng Cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam tổ chức Lễ trao Giải thưởng văn học nghệ thuật, báo chí đề tài lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng 5 năm (2014-2019) của Bộ Quốc phòng.

  • Khi dòng sách tản văn, tùy bút, tiểu thuyết ngôn tình thiên về yếu tố thị trường đang có xu hướng chững lại thì thời gian gần đây, một số đơn vị xuất bản trong nước đã bắt đầu mở rộng cửa cho những tác giả trẻ đi theo lối viết chính thống, có nhiều thể nghiệm sáng tạo.

  • Nguyễn Thị Kim Hòa (hội viên Hội Nhà văn Việt Nam) không còn là cái tên xa lạ trong làng văn chương nước nhà. Bởi những năm gần đây, Hòa liên tục gây ấn tượng bằng những tác phẩm đậm chất sáng tạo, và là chủ nhân của nhiều giải thưởng văn chương uy tín. Và khi nhắc đến văn chương của Nguyễn Thị Kim Hòa, phải đề cập ngay đến thể loại văn học thiếu nhi.

  • “Nhắc đến Phan Quang, chúng ta vẫn hình dung ông là nhà báo lớn, nhà hoạt động xã hội xuất sắc, quên mất Phan Quang còn là nhà văn...".

  • Sau 2 cuốn sách Sài Gòn dòng sông tuổi thơ và Sài Gòn khâu lại mảnh thời gian, nhà văn Lê Văn Nghĩa ở tuổi 67 tiếp tục ra mắt tạp bút Sài Gòn chuyện xưa mà chưa cũ, do Nhà xuất bản Trẻ ấn hành đầu xuân Canh Tý. Hơn 400 trang sách là những ký ức vừa rộn ràng vừa xôn xao về đô thị nhộn nhịp nhất phương Nam.

  • “Linh điểu” là tiểu thuyết thứ 10 của Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Dân trí và Công ty sách Trí thức Việt phát hành, quý I/2020. 

  • Hay tin nhà văn, nhà báo Trần Thanh Phương vừa trút hơi thở cuối cùng tại Bệnh viện Nhân dân 115 (TPHCM), rất nhiều văn nghệ sĩ đã bày tỏ sự thương tiếc. Bởi một lẽ, hiếm hoi có một người cần mẫn với chữ nghĩa, với văn chương như ông.

  • Trong phong trào Thơ mới, có nhiều thi sĩ làm thơ với đề tài mùa xuân và để lại những thi phẩm lừng danh.

  • Năm mới Canh Tý 2020, nhà thơ Hoài Vũ đón mùa xuân thứ 85 trong cuộc đời nhiều thăng trầm. Các tuyển tập thơ, truyện ngắn và văn học dịch của Hoài Vũ sẽ lần lượt ra mắt bạn đọc, được chọn lọc từ những tác phẩm đã xuất bản.

  • Sau 1986, nền văn học bước vào thời kì đổi mới, hoà nhịp với công cuộc đổi mới mạnh mẽ và toàn diện trên đất nước ta. Lê Minh Khuê là nhà văn đã trưởng thành từ văn học chống Mĩ. Trước yêu cầu mới, chị đã có nhiều cố gắng, thể hiện những nỗ lực sáng tạo của một cây bút nữ. Trong đó, phải kể đến những đổi mới về bút pháp truyện ngắn.

  • Đây là tập thơ của tác giả Hồ Quang Toản, vừa được NXB Hội Nhà văn ấn hành. “Đời muối” với 72 bài thơ chở nặng những ký ức đẹp về mẹ và quê hương, là khúc tình ca tác giả chọn để thủ thỉ với tình yêu, với những khảo nghiệm đã thành tên in dấu cung đường anh đã đi qua.

  • Sáng 6-1, tại Hà Nội, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam tổ chức Hội nghị tổng kết công tác văn học, nghệ thuật năm 2019, triển khai công tác năm 2020 và trao giải thưởng văn học nghệ thuật 2019.

  • Ngày 26-12, chương trình giới thiệu các ấn phẩm đạt Giải thưởng Văn học Nghệ thuật (VHNT) TPHCM 5 năm lần II (2012 - 2017) đã diễn ra tại TPHCM, nhiều tác phẩm có giá trị đã được xướng tên, có điều, với việc được dán nhãn “sách không bán”, chưa biết tác phẩm sẽ đến với độc giả như thế nào?