Bản sắc văn hóa Việt trong tiểu thuyết lịch sử của Phùng Văn Khai

09:43 25/09/2020

1. Quan sát tiểu thuyết Việt Nam đương đại, chúng ta sẽ nhận thấy có một số triều đại, nhân vật được các nhà văn tập trung khai khác với mật độ khá dày như nhà Trần với Trần Khánh Dư, Trần Hưng Đạo (xuất hiện trong Sương mù tháng giêng của Uông Triều, Trần Khánh Dư của Lưu Sơn Minh, Chim ưng và chàng đan sọt của Bùi Việt Sĩ, Đức Thánh Trần của Trần Thanh Cảnh…), nhà Lê với Nguyễn Trãi (xuất hiện trong Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Trãi của Bùi Anh Tấn…), nhà Tây Sơn với Nguyễn Huệ (xuất hiện trong Sông Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, Tây Sơn bi hùng truyện của Lê Đình Danh…).

Trong khi đó lại có những triều đại, nhân vật lịch sử vẫn là những “khoảng trắng”, chưa và ít được các nhà văn để ý đến, đặc biệt là những triều đại và nhân vật trước cột mốc lịch sử 938. Ý thức được việc lấp đầy những khoảng trắng này vừa là bổn phận, trách nhiệm của con cháu đối với công ơn của các bậc tiên liệt vừa mở ra những hướng tiếp cận khác cho đề tài lịch sử, trong vòng 5 năm trở lại đây, nhà văn Phùng Văn Khai đã xuất bản liên tiếp ba tiểu thuyết Phùng Vương (Nxb Hội Nhà văn, 2015), Ngô Vương (Nxb Văn học, 2018) và Nam Đế Vạn Xuân (Nxb Văn học, 2020) viết về Phùng Hưng, Ngô Quyền, Lý Nam Đế - những bậc anh hùng lừng lẫy trong lịch sử dân tộc mà cho đến nay vẫn hiển diện một cách mờ nhạt trong văn học Việt.

Với bộ ba tiểu thuyết này, Phùng Văn Khai đã có cú “lội ngược dòng” lịch sử trên phương diện thi pháp thể loại. Việc trở lại với một trong những hình thức “nguyên thủy” của tiểu thuyết là chương hồi là hướng tiếp cận khá thú vị và đầy bất ngờ của Phùng Văn Khai. Tiểu thuyết chương hồi với đặc trưng cơ bản là diễn tiến cốt truyện tuân theo thời gian tuyến tính có thể giúp bạn đọc tiếp thu tác phẩm dễ dàng hơn trong bối cảnh nhịp sống xã hội đang ngày càng hối hả, gấp gáp như hiện nay. Tuy nhiên đây không phải là vấn đề đáng quan tâm nhất trong tiểu thuyết lịch sử Phùng Văn Khai.

Điểm cốt yếu trong bộ ba tiểu thuyết này, theo tôi là cái cách anh miêu tả và tái hiện lịch sử. Lịch sử qua ngòi bút của Phùng Văn Khai không chỉ là những câu chuyện xưa cũ, không chỉ gợi lên những vấn đề của xã hội đương đại hôm nay mà lịch sử còn chính là văn hóa. Trong bộ ba tiểu thuyết này, chúng ta bắt gặp những dòng chảy văn hóa Việt song hành cùng dòng chảy lịch sử.


2. Lịch sử quốc gia, dân tộc Việt luôn chịu tác động trực tiếp, gián tiếp của lịch sử Trung Quốc từ thuở dựng nước cho đến thời hiện đại. Đó là định mệnh của quốc gia, dân tộc mà dù muốn hay không chúng ta cũng phải chấp nhận. Trong nhiều tiểu thuyết lịch sử, các tác giả thường chỉ chú ý miêu tả đời sống chính trị - xã hội nước nhà mà bỏ qua hoặc chỉ miêu tả khái lược về đời sống chính trị - xã hội Trung Quốc cùng thời và những tác động của đời sống chính trị - xã hội đó đối với vận mệnh dân tộc. Phùng Văn Khai đã chọn cho mình một hướng tiếp cận lịch sử khác.

Anh miêu tả kĩ đời sống chính trị - xã hội Trung Quốc, đặt nó trong mối quan hệ biện chứng với đời sống chính trị - xã hội nước nhà trên cả hai bình diện vĩ mô và vi mô. Ở tầm vĩ mô, sự tan rã của nhà Đường khi xảy ra loạn An Lộc Sơn, Sử Tư Minh (Phùng Vương) là thời cơ có một không hai để họ Phùng đất Đường Lâm phất cờ tụ nghĩa; việc “thay tướng giữa dòng” của Lương Vũ Đế (Nam Đế Vạn Xuân) là “giọt nước tràn li” khiến người dân vùng Giao Châu nổi dậy dưới lời hiệu triệu của Lý Bí; chiến sự giữa nhà Hậu Đường và Hán đế Lưu Cung (Ngô Vương) là nhân tố ngoài dự kiến khiến việc xưng vương của Ngô Quyền gặp thuận lợi sau đại thắng Bạch Đằng 938.

Ở tầm vi mô, những toan tính, đấu đá chính trị trong nội bộ những viên quan Trung Quốc cai trị nước ta như giữa Cao Chính Bình và Trương Bá Nghi (Phùng Vương), giữa Tiêu Tư và Lý Tắc, Trương Húc (Nam Đế Vạn Xuân), Hoằng Tháo và Độc Toàn Chân (Ngô Vương) có ảnh hưởng trực tiếp, thậm chí quyết định đến cục diện chiến trường giữa nghĩa quân và quân xâm lược.

Tuy nhiên, theo tôi, điểm cốt lõi Phùng Văn Khai muốn nhấn đến qua những miêu tả này là sự khác biệt giữa văn hóa chính trị của hai quốc gia, dân tộc. Đối lập với văn hóa chính trị mang tính chất áp đặt, tự nhận là trung tâm thế giới, coi thiên hạ bên ngoài đều là chư hầu, thuộc địa của Trung Quốc là nền văn hóa chính trị uyển chuyển theo nguyên lí “miên lí tàng châm” của Việt Nam.

Văn hóa chính trị của người Việt vừa uyển chuyển, mềm mại như sợi bông vừa cương quyết, cứng rắn, mạnh mẽ và khó đoán định như mũi châm vô hình, vô ảnh. Người Việt chỉ mong sống trong hòa bình, yên ổn, không có dã tâm xâm lược, chiếm đoạt nhưng không hề yếu đuối. Sợi bông tuy mềm mại không hại ai nhưng mũi châm nhọn ẩn trong đó đủ sức làm đau, làm chùn ý định chiếm đoạt của bất cứ thế lực nào.

Khi Sĩ Nhiếp dùng đức phục chúng, không làm phương hại đến dân tộc, quốc gia, người Việt tôn làm Nam Giao học tổ, còn khi những kẻ cuồng hãn như Triệu Tư, Cao Chính Bình, Hoằng Tháo đem vũ lực hòng trấn áp, cướp bóc, giết hại thì ngay lập tức chúng vấp phải những đòn đáp trả sấm sét của dân tộc Việt.

Những đòn đáp trả đủ “độ” để vừa giành lại độc lập tự do cho dân tộc, vừa đảm bảo tình hòa hiếu, “thể diện” cho thiên triều nhằm tránh họa binh đao sau này như cái cách Lý Bí tha cho tướng giặc Thạch Đạt (Nam Đế Vạn Xuân), Phùng Hưng lấy thành Tống Bình khi Cao Chính Bình ốm chết (Phùng Vương). Có thể nói, nguyên lí “miên lí tàng châm” đã toát lên cái sâu sắc, miên viễn, linh hoạt, tinh tế trong văn hóa chính trị của người Việt. Một nền văn hóa chính trị đề cao hòa bình, hòa hợp, hòa hiếu.


3. Bên cạnh văn hóa chính trị, bộ ba tiểu thuyết lịch sử của Phùng Văn Khai còn khắc họa những giá trị văn hóa truyền thống của người Việt, trong đó có văn hóa tâm linh. TS. Nguyễn Văn Hùng trong bài viết Tiểu thuyết lịch sử như là sự kiến tạo diễn ngôn dân tộc chủ nghĩa đã rất tinh và sâu sắc khi nhận thấy qua tiểu thuyết lịch sử, “Phùng Văn Khai đã nỗ lực phục dựng văn hóa Phật giáo như là nền tảng tinh thần của người phương Nam (khu vực ngoại biên) kháng cự lại văn hóa phương Bắc (khu vực trung tâm)…

Tác giả đã dày công tìm hiểu lịch sử và văn hóa Phật giáo, đặt định song hành với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc của Lý Nam Đế, hình thành nên diễn ngôn định vị văn hóa bản địa”. Nhận định trên của Nguyễn Văn Hùng mới chỉ đề cập đến phương diện tôn giáo trong tiểu thuyết lịch sử Phùng Văn Khai. Tôn giáo là một thành tố cốt lõi của bất kì nền văn hóa tâm linh của quốc gia nào.

Tuy nhiên, tiểu thuyết lịch sử của Phùng Văn Khai ngoài tôn giáo còn có những yếu tố khác của văn hóa tâm linh Việt. Để tái hiện những yếu tố văn hóa tâm linh này, Phùng Văn Khai một mặt dựa vào những tư liệu, khảo cứu dân tộc học, văn hóa học như những nghiên cứu về dòng thiền Luy Lâu, một mặt sử dụng triệt để thần thoại, truyền thuyết, huyền sử và dã sử.

Văn hóa tâm linh trong bộ ba tiểu thuyết biểu hiện trước nhất ở tín ngưỡng thờ vua Hùng, thờ Lạc Long Quân, Âu Cơ - những vị quốc tổ của người Việt (Phùng Vương, Nam Đế Vạn Xuân), thứ nữa là ở hệ thống thần và tín ngưỡng thờ thần của người Việt. Đó là những vị thần được nhân dân tôn vinh là bất tử như Chử Đồng Tử và Tản Viên sơn thánh, là hệ thống thần bản địa như thần sông Tô Lịch, thần thành Đại La… và hệ thống nhân thần vốn là những người có công với đất nước khi mất đi hóa thành thần như Bố Cái Đại Vương (Ngô Vương).

Phùng Văn Khai luôn miêu tả hai tín ngưỡng này và các bậc quốc tổ, thần đất Việt trong mối quan hệ, gắn bó với địa thế, địa hình tụ hội linh khí của dân tộc có hình dạng “trạch đắc long xà”, “phát đế xưng vương” như đất Phong Châu, đất Đường Lâm, núi Tản Viên… Sự hiển diện với tần suất dày đặc của văn hóa tâm linh trong bộ ba tiểu thuyết lịch sử có tác dụng khơi dậy ý thức về nguồn cội dân tộc một cách mạnh mẽ.

Trong Nam Đế Vạn Xuân, hình ảnh đối lập giữa ngôi đền Lạc Long Quân “khang trang, vững vàng giữa quả đồi đất lớn xung quanh là những tầng cây cổ thụ hàng lối nghiêm ngắn” với người thờ cúng đông đảo và ngôi đền thờ Sĩ Nhiếp nằm ở “cách đó không xa, trên một đồi đất rộng phía bên phải” mang một dụng ý rõ ràng. Sự đối lập giữa vị trí và vị thế của hai ngôi đền là cách Phùng Văn Khai khẳng định người Việt là một dân tộc “khu biệt” hoàn toàn không dính dáng gì với người Trung Hoa, không phải là một nhánh của người Trung Hoa xuống phía Nam kiếp sống.

Sự thất bại trong việc yểm bùa, trấn trạch long mạch nước Nam và cái chết trong đau đớn, tức tưởi của Trương Thuận khi dám mạo phạm thần Tản Viên, thần sông Tô Lịch, sự phản kháng dữ dội của nhân dân thành Đại La trước bản dụ xấc xược xúc phạm tổ tiên của Tiêu Tư là những minh chứng cho tính tôn nghiêm, toàn vẹn của nền văn hóa tâm linh Việt.

Mặt khác, Phùng Văn Khai đã để cho các nhân vật có hàng loạt “phát ngôn” ngợi ca nguồn cội và sự trường tồn của dân tộc từ khía cạnh văn hóa tâm linh như lời của Phùng Hạp Khanh với Vũ Khánh và con trai Công Phấn: “Tản Viên còn thì nước Nam còn, đời đời sẽ là như thế”(1), lời Phùng Hưng với chư tướng: “Phong Châu là vùng văn cốt, đất rộng, người đông, nơi xưa kia các vua Hùng từng đặt quốc đô ở đó, linh khí đất trời hưng vượng của An Nam ta cũng từ đó mà ra”(2).

Qua những phát ngôn trên, Phùng Văn Khai đã khẳng định sự vĩnh cửu và sức mạnh của nền văn hóa tâm linh dân tộc chính là nhân tố quyết định làm thất bại âm mưu “đồng hóa”, cai trị người Việt của người Trung Quốc dù họ đã áp dụng “trăm phương nghìn kế” từ dùng nhân trị, đức trị như Sĩ Nhiếp đến pháp trị, võ trị như Tiêu Tư, Trương Thuận, Cao Chính Bình. Đây là một trong những điểm cốt lõi tạo nên giá trị cho tiểu thuyết lịch sử Phùng Văn Khai.


4. Ngoài đời sống văn hóa tâm linh, trong bộ ba tiểu thuyết lịch sử, Phùng Văn Khai còn chú trọng khai thác những giá trị văn hóa khác của dân tộc. Đó là những giá trị của nền văn hóa nông nghiệp. Nền văn hóa ấy được Phùng Văn Khai gợi nên từ những trang văn miêu tả các sản vật đặc trưng của nền văn minh lúa nước như bánh chưng, bánh dày, bánh giò, món cá rô nấu xôi (Ngô Vương), từ những phong tục, tập quán, thói quen sinh hoạt như tục săn, thuần hóa voi (Phùng Vương), từ những lễ hội truyền thống diễn ra vào mùa xuân, tháng giêng - tháng ăn chơi theo quan niệm của người Việt - như lễ hội đi cà kheo ở vùng biển, lễ hội đua thuyền, lễ hội chọi trâu (Ngô Vương) cùng những trò chơi dân gian đánh đu, chọi gà (Nam Đế Vạn Xuân).

Ngoài văn hóa nông nghiệp, văn hóa quân sự cũng là một khía cạnh đáng chú ý của bộ ba tiểu thuyết lịch sử kể trên. Ở phương diện đối kháng cá nhân, người Việt nổi tiếng với môn võ vật truyền thống. Những trận đấu giữa sới vật ngày xuân trong Nam Đế Vạn Xuân đã tái hiện những miếng vật cổ truyền, bí hiểm của cha ông dựa trên hình thể của mình nhằm khuất phục những đối thủ to lớn hơn.

Về lực lượng tác chiến, Phùng Văn Khai dồn bút lực miêu tả hai lực lượng quân sự trọng yếu, mang đậm bản sắc Việt trong thế đối sánh với sức mạnh của quân xâm lược là tượng binh và thủy binh. Phương Bắc cưỡi ngựa, phương Nam đi thuyền, lịch sử quân sự Việt Nam đã chứng minh thủy binh Việt là lực lượng tác chiến đặc biệt tinh nhuệ có những công lao, chiến tích “oanh liệt thiên thu” góp phần đặt “dấu chấm hết” cho các cuộc xâm lược của kẻ thù trong suốt chiều dài dựng nước và giữ nước.

Cách huấn luyện, sử dụng voi trong chiến trận của người Việt cũng có những điểm độc đáo, khác lạ làm kẻ thù khiếp sợ. Những trang viết về những chuyến đi săn, thuần hóa, huấn luyện, chiến đấu của tượng binh trong trận phục binh giết chết tướng giặc Thang Ân Bá tại núi Ngõa Cương, xéo nát quân Đường trong trận chiến giữ Đường Lâm (Phùng Vương), cách chọn gỗ để đóng thuyền, kĩ thuật đóng, cách sơn, cách huấn luyện binh sĩ và phương pháp tác chiến của thủy binh Việt trong những trận hải chiến dữ dội trên sông Bạch Đằng (Ngô Vương), ở đầm Sương Mù (Nam Đế Vạn Xuân) là những trang viết sinh động, lôi cuốn bậc nhất ở cả ba tiểu thuyết. Về nghệ thuật tác chiến, phương châm “lấy ít địch nhiều”, “lấy yếu thắng thắng mạnh” vốn là tinh hoa của nghệ thuật quân sự Việt Nam cũng được thể hiện rõ với việc điều binh khiển tướng của ba vị anh hùng Ngô Quyền, Phùng Hưng và Lý Nam Đế trong hành trình giành lại độc lập cho dân tộc.

Văn hóa chính trị, văn hóa tâm linh, văn hóa nông nghiệp và văn hóa quân sự là bốn “cột trụ” của văn hóa Việt trong bộ ba tiểu thuyết lịch sử của nhà văn Phùng Văn Khai. Với ý đồ phục dựng các thiết chế văn hóa Việt trong tiểu thuyết lịch sử, tôi cho rằng cái đích sau cùng Phùng Văn Khai hướng đến không phải là câu chuyện về sự kháng cự giữa văn hóa ngoại biên (văn hóa Việt) đối với nền văn hóa trung tâm (văn hóa Trung Quốc) như nhận định của TS. Nguyễn Văn Hùng trong đoạn trích dẫn trên mà là lời khẳng định về sự bình đẳng giữa hai nền văn hóa, hai quốc gia và hai dân tộc. Đây là điểm hết sức quan thiết. Chỉ trên cơ sở bình đẳng, nước ta, dân tộc ta mới có thể tồn tại vững vàng, an nhiên bên cạnh một người láng giềng như Trung Quốc. Giá trị cốt lõi của bộ ba tiểu thuyết lịch sử mấy nghìn trang của Phùng Văn Khai, tôi nghĩ nằm ở đấy.

Nguồn: Đoàn Minh Tâm - VNQĐ

-------

1. Phùng Vương (2015), Nxb Hội Nhà văn, tr 77.

2. Phùng Vương (2015), Nxb Hội Nhà văn, tr 444.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Giải thưởng văn học Sông Mekong lần thứ 11 sẽ diễn ra tại thủ đô Phnompenh, Campuchia vào cuối năm 2020. Hai tác giả Việt Nam đoạt Giải thưởng năm nay là tác giả Trần Nhuận Minh với tác phẩm sách thơ Qua sóng Trường Giang và tác giả Trần Ngọc Phú với tác phẩm Từ Biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp.

  • Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4-10-1920 - 4-10-2020), NXB Hội Nhà văn cho ra mắt bạn đọc tập sách dày dặn, công phu và nghĩa tình Tố Hữu - Một đường thơ, một đường đời.

  • Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng, người cuối cùng của phong trào Thơ mới vừa từ giã bạn đọc ở tuổi 100 – thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh - là người “không để thơ… ngủ quên trên thành công của dòng lãng mạn trước đó”.

  • Đoàn Ngọc Thu nói rằng chị thích thơ của mình ngày xưa hơn. Những xúc cảm ấy vẫn như còn váng vất trong những vần thơ trong tập “Sau bão” (NXB Hội Nhà văn, 2020).

  • Ra đời cách đây 25 năm, bộ truyện “Kính Vạn Hoa” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có ý nghĩa đặc biệt, khơi luồng gió mới cho văn học thiếu nhi Việt Nam thời kỳ đổi mới, mang đến món ăn tinh thần lý thú bổ ích. Tuy nhiên, quá trình thực hiện bộ sách cũng thử thách những người chọn lựa bước trên con đường dài sáng tạo không ngừng nghỉ.

  • Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh năm 1920 tại Ðà Lạt, nguyên quán Quảng Bình, lúc nhỏ theo học ở Trường Quốc học Quy Nhơn (cũ), sau đó chuyển ra Hà Nội.

  • Sáng 22/11/2020, Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã thông báo chia sẻ tin buồn cho các nhà thơ và những người yêu thơ đó là nhà thơ tiền bối nổi tiếng Nguyễn Xuân Sanh vừa qua đời.

  • NXB Văn học giới thiệu “Nghề vương bụi phấn”, tác phẩm thứ ba của tác giả Nguyễn Huy Du, gồm những câu chuyện về tình thầy trò với văn phong mộc mạc, giản dị nhưng lôi cuốn, nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11.

  • Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh ngày 16 tháng 11 năm 1920, quê gốc thuộc huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Ông cũng là một trong những hội viên tiền phong tham gia xây dựng Hội Nhà văn Việt Nam. Năm nay ông tròn 100 tuổi. Hội Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức chúc thọ nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh tại trụ sở số 9, Nguyễn Đình Chiểu hôm 9/11/2020 với sự tham gia của lãnh đạo Hội, các nhà văn nhà thơ và đại diện gia đình của ông.

  • “Nẻo vào văn xuôi đương đại Việt Nam” là tập tiểu luận - phê bình của TS Bùi Như Hải, do NXB Văn học ấn hành tháng 9-2020.

  • Sáng 5-11, Viện Văn học Việt Nam đã tổ chức toạ đàm nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh PGS – nhà nghiên cứu văn học Vũ Đức Phúc. Đây là một dịp để các thế hệ Viện Văn học ngồi lại cùng ôn cố và “soi chiếu cho tương lai” – như lời PGS,TS Nguyễn Đăng Điệp, Viện trưởng Viện Văn học nhận định.

  • Bằng sự lao động miệt mài và nghiêm túc, nhà văn Lê Văn Nghĩa thường gửi đến độc giả những đầu sách độc đáo, nhiều cuốn trong số đó có giá trị như một “bảo tàng ký ức” của không chỉ riêng tác giả.

  • Thạch Lam (1910 - 1942) là đại biểu xuất sắc của văn xuôi lãng mạn Việt Nam thời kì 1930 - 1945. Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời (Nguyễn Tuân).

  • Sáng ngày 20/10/2020, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức kỉ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4/10/1920 – 4/10/2020).

  • Đã có nhiều nhà văn viết về Hà Nội - Thủ đô yêu dấu - như Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nguyễn Khải… Nhưng tập truyện ký “Hà Nội và tôi” (NXB Hội Nhà văn) gần 300 trang với hơn 20 tác phẩm của nhà văn Vũ Ngọc Tiến, một người Hà Nội gốc, đã cho ta biết thêm một phần chân dung về những con người của đất Tràng An thanh lịch.

  • Tháng 10, nhân kỷ niệm 66 năm ngày Giải phóng Thủ đô, Nhã Nam giới thiệu tới bạn đọc một tác phẩm mới của nhà văn Nguyễn Trương Quý, cây viết vốn quen thuộc với những tản văn về các góc nhỏ của Hà Nội: “”Hà Nội bảo thế là thường”.

  • Rất lâu rồi, không có luận văn, luận án nào về thơ Tố Hữu. Cũng lâu lắm rồi, sau Hà Minh Đức, Trần Đình Sử… rất ít người viết về thơ ông. Tôi cũng chưa bao giờ viết về thơ Tố Hữu khi ông còn sống. Nhưng với chúng tôi, thơ Tố Hữu là nguồn suối tươi mát, mạch ngầm sống động trong đời sống tinh thần. "Chúng tôi" ở đây là thế hệ những người ở lứa tuổi 70. Trong quãng thời gian 70 năm của một đời người thì ít nhất có 30 năm (1954 - 1975) chúng tôi đã được sống với thơ Tố Hữu.

  • Bằng kiến thức của một chuyên gia đầu ngành và sự trân trọng quá khứ một đi không trở lại, ông đã chỉ ra giá trị của cuốn sách và ý nghĩa của việc làm sống lại những kí ức Hà Nội rất đặc biệt thông qua cuốn sách này...

  • Có một bộ phim tôi không thực nhớ nội dung, một bộ phim của Woody Allen mang tên "Đóa hồng tím ở Cairo", câu chuyện mang máng mà tôi còn nhớ, đó là một người phụ nữ thất bại trong tất cả mọi khía cạnh cuộc đời, rồi cô vào một rạp chiếu bóng, xem một bộ phim, và trong giây phút ấy, cô quên béng mất cuộc đời mình, cô òa khóc, không phải vì mình, mà vì những nhân vật trong phim.

  • Năm 1941, với việc xuất bản Dế mèn phiêu lưu ký ở tuổi 20 (bản in đầu tiên có nhan đề Con dế mèn), Tô Hoài có được hai vinh dự lớn trong nghề cầm bút: Trở thành người mở đầu thể loại truyện đồng thoại; Tác phẩm mở đầu lại là đỉnh cao của thể loại, đồng thời là một trong những áng văn học thiếu nhi nổi tiếng thế giới nhất của Việt Nam.