Bài thơ Chức Cẩm Hồi Văn của Tô Huệ

15:16 04/08/2008
HẢI TRUNGVào thời Hán, ở Trung Quốc, có một vị tướng tên là Đậu Thao, do phạm trọng tội nên bị vua Hán đày biệt xứ ra biên ải. Vợ của tướng quân này là Tô Huệ là một phụ nữ bình dân sống bằng nghề dệt lụa. Từ ngày Đậu Thao bị đày ra biên ải, ngày đêm vò võ ngóng tin chồng, nhưng ngày tháng cứ nối nhau qua mãi mà vẫn biệt âm vô tín.

Dồn nén tất cả thương nhớ vào tâm hồn, bằng tài thi văn của mình Tô Huệ đã viết Chức Cẩm Hồi Văn và dệt lên lụa với nội dung diễn đạt hết sức bi thiết về nỗi nhớ chồng. Có người ra biên ải, Tô Huệ gửi bài thơ ấy cho Đậu Thao. Nhưng người đưa thư cầm thư mà không hiểu nội dung viết gì, e ngại trong thư có lời lẽ phản nghịch, lo sợ vạ lây, nên đã chuyển thư về triều đình.
 Thư Chức Cẩm Hồi Văn đến tay vua Hán, sau khi nghiên cứu đọc toàn bộ nội dung, cảm phục trước tấm lòng sắt son và tài thi phú của một người phụ nữ, vua hạ chỉ tha cho Đậu Thao về. Bài thơ thật sự gây được ấn tượng thẩm mỹ cho người xem, người đọc từ hình thức trình bày đến nội dung chữ nghĩa.
 Trong các dạng hồi văn của thi ca Hán Nôm, bài Chức Cẩm Hồi Văn của Tô Huệ khá độc đáo bởi sự thể hiện qua một đồ hình lạ lẫm với tất cả 280 chữ (trong đó có 32 chữ lớn, 248 chữ nhỏ). Thoạt tiên, khi nhìn vào, người ta có cảm giác như một họa đồ trang trí, nhưng kỳ thực đây lại là một bài thơ hồi văn được sắp xếp theo một quy ước, một trật tự do người sáng tác tự nghĩ ra.
 Lối thơ hồi văn có nhiều biến thể về cách tổ chức dạng hồi văn (có thể là đọc xuôi, đọc ngược, quay đi quay lại nhiều vòng) để có nhiều bài thơ khác nhau; hoặc có nhiều biến thể về hình thức như xếp trong hình tròn, hình vuông, hình tam giác, hình thoi... tạo nên những đồ hình (vừa phô diễn trí tuệ của của thể sáng tạo, vừa thách đố trình độ thưởng thức của khách thể thẩm mỹ). Để tìm ra cách đọc, người ta phải mất nhiều thời gian trong quá trình tìm phương pháp, mỗi một bài thơ lại có một phương pháp đọc được quy ước theo nhiều cách riêng. Bài Chức Cẩm Hồi Văn của Tô Huệ có cách đọc theo trật tự trong lược đồ sau:
 
 Bài thơ còn có một điểm thú vị khác là, điểm xuất phát của bài thơ là chữ  quân (chàng); điểm kết thúc của bài thơ là chữ hoàn (trở về) cũng đã tạo nên hai điểm nhấn cho việc diễn đạt cảm xúc cảm xúc, tình ý của toàn bộ nội dung: nỗi tha thiết mong chồng trở về. Chúng tôi xin trình bày nguyên văn chữ Hán gồm 40 câu (đọc theo cáh ở lược đồ đã trình bày) cùng các phần phiên âm, dịch thơ của bài Chức Cẩm Hồi Văn này.
 

Phiên âm: TÔ HUỆ CHỨC CẨM HỒI VĂN
 
 Quân thừa Hoàng chiếu yên biên thú
 Tống quân tống biệt hà kiều lộ
 Hàm bi yểm lệ tặng quân ngôn
 Mạc vong ân tình tiện trần khứ
 Hà kỳ nhất khứ âm tín đoạn
 Ưc thiếp bình vi xuân bất noãn
 Quỳnh dao giai hạ bích đài phong
 San hồ trương lý hồng trần mãn
 Thử thời đạo biệt mỗi kinh hồn
 Tưởng tâm hà thác cánh phùng quân
 Nhất tâm nguyện tác thương hải nguyệt
 Nhất tâm nguyện tác lãnh đầu vân
 Lãnh vân tuế tuế phùng phu diện
 Hải nguyệt niên niên chiếu đắc biên
 Phi lai phi khứ đáo quân bàng
 Thiên lý vạn lý diêu tương kiến
 Điều điều lộ viễn, quan sơn cách
 Hận quân tái ngoại trường vi khách
 Thử thời tương biệt lô diệp hoàng
 Thùy tín kỷ kinh mai hoa bạch
 Bách hoa tán loạn phùng xuân tảo
 Xuân ý thôi nhân hướng thùy đạo
 Thùy dương tảo địa vị quân ban
 Lạc hoa mãn địa vô nhân tảo
 Đình tiền xuân thảo chính phân phương
 Bảo đắc Tần tranh hướng họa đường
 Vị quân đàn tận Giang Nam khúc
 Phụ ký tình thâm đáo bắc phương
 Bắc phương điều đệ sơn hà việt
 Vạn lý âm thư trường đoạn tuyệt
 Ngân trang chẩm thượng lệ triêm y
 Kim lũ la thường hoa giai liệt
 Tam xuân hồng nhạn độ giang thanh
 Thử thị ly nhân đoạn tràng tình
 Tranh huyền vị đoạn, tràng tiên đoạn
 Kết oán tiên thành, khúc vi thành
 Quân kim ức thiếp trọng như san
 Thiếp diệc tư quân bất tạm nhàn
 Chức tương nhất bản hiến Thiên Tử
 Nguyên phóng nhi phu cấp tảo hoàn.
 
DỊCH THƠ:
 
 Chàng vâng chiếu ra ngoài biên thú
 Thiếp đưa chàng kiều lộ xa xa
 Mấy lời tặng những châu sa
 Tình ân ái ấy biết là nhớ không
 Sao một chút tin hồng văn vẳng
 Chốn chinh vi xuân chẳng ấm nồng
 Dưới thềm lỗ chỗ rêu phong
 Trong màng ngang dọc bụi hồng sương che
 Khi tống biệt hồn kia kinh hãi
 Biết làm sao cho gặp lại cùng
 Ước gì như nguyệt bể đông
 Ước gì như thế mây hồng đầu non
 Mây non, nọ may còn một thấy
 Trăng bể kia soi dậy một phương
 Những mong lại được gặp chàng
 Dẫu nghìn muôn dặm rõ đường tương thân
 Đường thăm thẳm mấy lâu xa cách
 Giận chàng còn làm khách ải quan
 Ngày di lư diệp mới vàng
 Bây giờ đã mấy mai tàn trắng bông
 Mai tán loạn gặp cùng xuân mới
 Nỗi xuân riêng khôn nói cho ra
 Vì chàng nên lá dương tà
 Hoa rơi man mác ai là tảo nhân
 Trước sân những cỏ xuân thơm nức
 Ôm đàn tranh ra trước họa đường
 Vàng khúc Giang Nam gảy vì chàng
 Đem tình cho đến sóc phương cõi ngoài
 Ngoài phương sóc xa xôi thăm thẳm
 Bức âm thư nghìn dặm thấy đâu
 Pha phôi áo lệ gối sầu
 Dưới thềm hoa lá cùng mầu nở ra
 Qua sông ấy tiếng gà xao xác
 Nỗi ly nhân trường đoạn khác đâu
 Đàn chưa rối ruột đã sầu
 Cho nên một khúc cung sau chưa tròn
 Chàng nhớ thiếp như non tình nặng
 Thiếp nhớ chàng cũng chẳng tạm khuây
 Hồi văn một bức thư này
 Nhi phu xin sớm kịp ngày khởi quy
 Bản dịch của Ngô Thế Vinh (1803-1856), Tiến sĩ thời Tự Đức
(nguồn: TCSH số 156 - 02 - 2002)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN DƯ

    Nhân lúc rảnh rỗi, mời các bạn cùng đọc truyện Trầu cau. Bàn chơi cho vui.

  • TRỊNH SÂM

    Trải qua biết bao thời đại, mèo đã trở thành con vật quen thuộc trong mỗi gia đình Việt Nam.

  • NGUYỄN ĐỨC DƯƠNG

    Làm thế nào để biết một biểu thức ngôn từ [BTNT] do dân gian sáng tác ra là một đơn vị tục ngữ? Chứ không phải là thành ngữ hay ca dao? Mục đích chính của bài này là đi tìm một câu trả lời thỏa đáng cho mấy câu hỏi vừa nêu.

  • NGUYỄN ĐỨC DÂN Có một giai thoại về Nguyễn Khuyến như sau: Làng Cổ Ngựa có ngôi đền thờ thánh mẫu thu hút khá nhiều người đến lễ bái. Nhằm kiếm chác đám người mê tín, hào lý trong làng xuất quỹ xây lại đền to hơn, đẹp hơn.

  • Mai Văn Tấn tên thật là Mai Văn Kế. Sinh ngày 12-9-1931 tại Lệ Ninh Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.

  • THANH TRẮC NGUYỄN VĂN1. Tiểu Hổ gặp họa

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGTừ trước đến nay, không có lễ tục nào được nhắc đến nhiều trong truyện cổ của người Pacô bằng tục Pộôc xu (Đi sim), đây là một nét văn hóa truyền thống từ xưa của người Pacô. Mặc dầu đến nay do lối sống hiện đại nên nhiều nét văn hóa truyền thống mất đi, song không vì thế mà chúng ta quên nó. Đâu đó trong cuộc sống cộng đồng của người Pacô ngày nay vẫn còn nhiều câu chuyện kể về tục này. Nhân dịp xuân về xin được nêu ra đây nét đẹp trong lễ tục quan trọng đó.

  • L.T.S: Dân tộc Kơ-tu là một trong bốn dân tộc sống ở tỉnh Bình Trị Thiên, tập trung ở vùng Nam Đông, huyện Phú Lộc. Trước đây dân tộc Kơ-tu đã sát cánh cùng các lực lượng giải phóng tiến hành cuộc đấu tranh anh dũng chống lại bè lũ Mỹ ngụy. Ngày nay, dân tộc Kơ-tu đang vững bước đi lên trong công cuộc lao động sản xuất, xây dựng cuộc sống mới. Cũng như các dân tộc khác, người Kơ-tu không chỉ anh dũng trong chiến đấu, cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất mà còn có một nền văn nghệ dân gian rất phong phú và độc đáo. Bài viết sau đây là một nét phác họa trong chương trình giới thiệu nền văn học dân gian các dân tộc ít người ở tỉnh Bình Trị Thiên của chúng tôi.

  • VĨNH QUYỀNTừ lâu điều kiện thiên nhiên cũng như điều kiện xã hội đều thuận lợi cho mối quan hệ giữa hai dòng thơ ca dân gian Bình Trị Thiên và Quảng Nam.

  • NGUYỄN TIẾN VĂNMột trong những câu ca dao rất thông dụng phổ biến nhưng không phải là đơn giản và dễ nắm bắt nội dung: “Không chồng mà chửa mới ngoan/ Có chồng mà chửa thế gian sự thường”. Ở đây mắt của câu này là chữ ngoan. Vậy ngoan là gì?

  • VĨNH QUYỀNMười hai con giáp, chuột đứng hàng đầu. Kể cũng lạ?Hình dạng bé nhỏ xấu xí, phẩm cách hèn hạ đáng khinh, thế mà chuột được người xưa xếp trước cả những con vật uy mãnh như hổ, linh hiển như rồng. Đã thế, năm Tý – với biểu tượng con chuột, còn là năm đầu của một kỷ, chu kỳ 60 năm.

  • LƯƠNG ANCũng như nhiều vùng khác trên đất nước Việt Nam, ở Bình Trị Thiên chúng ta, các danh lam hoặc các ngọn núi cao, các dòng sông lớn thường có một truyền thuyết dân gian dính với nguồn gốc của nó. Sông Thạch Hãn, con sông lớn nhất vùng Quảng Trị cũ, cũng vậy.

  • TRIỀU NGUYÊN1. Khái quátSở dĩ người nghe (đọc) truyện cười phát ra được tiếng cười, bởi vì lí trí, tình cảm của họ gặp phải điều không bình thường: thay vì họ tưởng cuối cùng nhân vật sẽ nói, sẽ làm điều “A”, thì hoá ra nhân vật đã nói, làm điều “B”, thậm chí “không A”. Tức trí tuệ, cảm xúc đã không lường trước, đã bị đánh lạc hướng trước đối tượng đang quan tâm. Và thông thường, càng lạ lẫm, bất ngờ, tiếng cười càng sảng khoái, thú vị.

  • VĂN NHĨĐường Trường Sơn huyền thoại đã đi vào sử thi như một bản anh hùng ca của thời đại Hồ Chí Minh. Nhiều bài thơ, bài hát viết về Trường Sơn đã vượt qua biên độ của thời gian mãi mãi rung động lòng người.

  • LAN PHƯƠNGKho tàng âm nhạc dân gian của dân tộc Thái vùng Tây Bắc rất phong phú và đa dạng. Bất cứ nơi đâu trong bản làng của người Thái đều có thể thấy có các làn điệu dân ca thể hiện rõ phong cách riêng của mỗi vùng mà nguyên nhân do sự truyền lại cho các thế hệ theo cách cảm thụ và rung động riêng của mỗi nghệ nhân. Trong đó không thể thiếu tiếng cây đàn tính tẩu.

  • TRIỀU NGUYÊN1. Một bộ phận truyện cổ tích sinh hoạt có yếu tố tạo ra tiếng cười đã bị nhầm lẫn là truyện cười. Sự nhầm lẫn này đã xảy ra ngay cả với những sách sưu tập được cho là nghiêm túc.

  • TRIỀU NGUYÊN Trong những dịp cúng lễ, lễ lạt, hiếu hỉ, và đặc biệt là vào dịp Tết, rượu thường được nhắc đến, và có khi trở thành quan trọng hàng đầu: "Vô tửu bất thành lễ".

  • TRIỀU NGUYÊNCó một số bài ca dao dùng hình ảnh "đèn hạnh", xin dẫn ra dưới đây ít bài:(1)           Đêm khuya đèn hạnh thắp lên,                Vì chưng thương nhớ cho nên đi tìm.

  • PHAN XUÂN QUANGĐồng Tranh là một làng nổi tiếng trù phú một thời ở Quảng Nam. Làng này hiện còn lưu truyền một câu đối cổ có liên quan đến làng Gia Hội, Huế:Văn Đồng Tranh, võ Đồng Tranh, văn võ Đồng Tranh long hổ bảngQuân Gia Hội, thần Gia Hội, quân thần Gia Hội phụng hoàng trì.Câu đối này còn một số dị Bản, có khác một đôi chữ nhưng câu trên đây theo nhiều người là chính nhất và phổ biến hơn cả.