TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG
Ảnh: internet
1. Bác Hồ với Bình Trị Thiên
Bình Trị Thiên là nơi nhận được sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây cũng là nơi mà trong thời Pháp thuộc đã có nhiều người thân trong gia đình của Bác như cụ Nguyễn Sinh Khiêm, cụ Nguyễn Thị Thanh đã sống, học tập, làm việc và hoạt động cách mạng. Bà Hoàng Thị Loan - thân mẫu của Bác Hồ cũng đã yên nghỉ trên vùng đất Cố đô Huế.
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Bác Hồ luôn hướng về Huế về Bình Trị Thiên. Trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, tuy bận trăm công nghìn việc nhưng Người vẫn dành thì giờ chăm lo bồi dưỡng, giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên Bình Trị Thiên. Bác luôn quan tâm đến đồng bào, dõi theo những chiến công của đồng bào. Mỗi lần có chiến công Bác thường xuyên kịp thời động viên. Vì thế, quân và dân Bình Trị Thiên đã phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, chiến đấu dũng cảm, ngoan cường, đánh tan âm mưu bình định, chia cắt của địch.
Năm 1954, hòa bình lập lại nhưng Tổ quốc ta tạm thời chia cắt hai miền Nam - Bắc. Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, trở thành căn cứ địa cách mạng của cả nước, lời Bác trìu mến lại truyền đến với đồng bào miền Nam, đồng bào Bình Trị Thiên. Cuối năm 1955, Bác gửi một số quà tặng cho đồng bào miền núi thuộc xã Húc, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Việc này đã trở thành niềm tin sức mạnh cho nhân dân xã Húc và Quảng Trị vượt qua bao thử thách ác liệt trong những ngày giáp mặt với quân thù.
Ngày 16 tháng 6 năm 1957, một vinh dự vô cùng lớn lao là Đảng bộ và nhân dân Quảng Bình đặc biệt là cán bộ khu vực Vĩnh Linh vui mừng đón Bác về thăm, được Bác ân cần căn dặn nhiều điều về đoàn kết dân tộc, đánh giặc cứu nước. Sau khi Bác về đến Hà Nội, đảng viên và nhân dân Quảng Bình, Vĩnh Linh bồi hồi xúc động trước những cử chỉ thân mật, lời dạy ân cần của Người. Từ đó trở đi, một phong trào thi đua lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, hàn gắn vết thương chiến tranh, củng cố quốc phòng, đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Genève diễn ra sôi nổi và hào hứng khắp nơi.
Kể từ ngày Bác về với “thế giới người hiền”, đồng bào Bình Trị Thiên đã không ngừng học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người, đó là quyết tâm đánh giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
Sau ngày đất nước thống nhất, nhân dân Bình Trị Thiên bắt tay vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, đổi mới để tiến lên. Năm 1989, trước yêu cầu của tình hình phát triển kinh tế xã hội, tỉnh Bình Trị Thiên lại tách thành 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Cho dù nhập tỉnh rồi lại tách tỉnh nhưng đồng bào Bình Trị Thiên vẫn luôn hướng về cách mạng và Bác Hồ. Trong đó hình thức diễn xướng thơ ca dân gian là dễ đi sâu vào lòng người dân nhất. Hình tượng Bác Hồ lại càng được tỏa sáng soi đường cho nhân dân Bình Trị Thiên tiếp bước dưới lá cờ cách mạng, lá cờ chiến thắng.
2. Hình tượng Bác Hồ trong thơ ca dân gian Bình Trị Thiên
“Bác Hồ với nhân dân, nhân dân với Bác Hồ, mối quan hệ ấy là mối quan hệ vô cùng bền vững, sâu sắc và mặn nồng. Cũng như nhân dân cả nước, nhân dân Bình Trị Thiên biết ơn và kính yêu Bác Hồ vô hạn”(1). Tình cảm chân thành và thắm thiết ấy một phần được thể hiện, được phản ánh qua các vần thơ ca dân gian mộc mạc mà rất đằm thắm, thiết tha.
Tác giả của những bài thơ ca về Bác Hồ đủ các thành phần trong xã hội như nông dân, công nhân, nhân sĩ trí thức, đội ngũ văn nghệ sĩ, các cựu chiến binh, được họ sáng tác từ kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mỹ và trong những năm từ sau ngày đất nước hoàn toàn được giải phóng. Thơ ca dân gian Bình Trị Thiên viết về Bác Hồ gắn liền với công việc lao động, sản xuất, bảo vệ quê hương đất nước, giãi bày những tâm tư, tình cảm nguyện vọng của nhân dân. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc, mỗi hành động, lời nói của người dân luôn khắc sâu lòng biết ơn vô hạn đối với Bác:
Bác mong dân được ấm no,
Bác mong đất nước tự do hòa bình.
Suốt Trung, Nam, Bắc chúng mình,
Người bao nhiêu đó, nặng tình bấy nhiêu.
Với sự sáng tạo về ngôn ngữ và thể loại thơ ca dân gian, đồng bào đã nói lên được những ý nguyện của mình:
Ai đếm được cát?
Ai tát được bể?
Ai kể được sao?
Đố ai tính được công lao Bác Hồ.
Bác Hồ đã dành cho nhân dân Bình Trị Thiên nhiều tình cảm hết sức mộc mạc chân thành mà lại rất đỗi thiêng liêng. Đã có lần nhân dân ở chợ Sam, xã Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế quyết đấu tranh để bảo vệ giữ gìn đồng bạc Cụ Hồ. Trong chiến đấu chống quân xâm lược, người Bình Trị Thiên vẫn tin ở thế chiến thắng cuối cùng. Sự quyết tâm đó được thể hiện qua câu hò nhắn nhủ đồng bào.
Núi Mâu Sơn cao bao nhiêu trượng,
Sông Nhật Lệ sâu biết mấy nhiêu tầng.
Dừng chèo ta dặn bạn đồng tâm,
Lời Cụ Hồ nắm vững khăng khăng.
Dù có mưa nguồn chớp biển,
Cũng không đến nỗi mần răng mô đồng bào.
Ước nguyện lớn nhất của người dân là mong đất nước được độc lập và đón Bác vào thăm:
Ai ra muôn dặm trùng dương,
Cũng thường nhận được tình thương Cụ Hồ.
Mừng ngày Độc lập Cụ vô,
Thỏa lòng mong đợi ước mơ đêm ngày.
Xã Vĩnh Thủy, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị nằm dưới chân đồi 74, nơi có các trận địa phòng không và dân quân xã đã chiến đấu ngoan cường, bắn rơi nhiều máy bay, được Bác Hồ gửi thư khen ngợi. Đồng bào đã lấy cảm hứng từ chiến công đó mà sáng tác nên câu ca:
Vĩnh Thủy quê ta vang trời dậy đất,
Năm châu bốn biển tới tấp chào mừng.
Nghe lời Bác dạy dốc lòng,
Chiến công nối tiếp chiến công rộn ràng.
Thực hiện lời Bác, người dân Bình Trị Thiên cùng cả nước hưởng ứng phong trào bình dân học vụ. Người dân khuyên nhau đi học để khỏi hổ thẹn với dân, học để yêu quê hương, đất nước:
Bấm tay, mạ nhớ ngọn ngành,
Hai mùa lúa chín, con mình về đây.
Đêm đêm, mạ nhớ tỏ tường,
Ngàn năm, mạ nhớ công ơn Bác Hồ.
Tuổi cao, mắt mạ có mờ,
Dằn lòng son sắt, mạ chờ Bác vô.
Đêm đêm, nhẩm đọc i tờ,
Bình dân học vụ ngày càng tấn tới,
Dù cho giặc khủng bố, ruộng ngoài đồng không bỏ hóa nơi mô.
Toàn dân đoàn kết theo lời dạy của Cụ Hồ,
Đánh tan quân cướp nước, giữ cơ đồ Việt Nam.
Đồng bào Tà Ôi, Pa Cô, Bru - Vân Kiều luôn làm theo những lời căn dặn của Bác, vì thế mà trong thơ ca dân gian hình ảnh Bác được đồng bào các dân tộc thiểu số nơi đây nhắc đến nhiều. Những bài ca cách mạng cũng theo đó mà ngân vang vào trong vùng dân tộc, con gái, con trai, trẻ nhỏ đều náo nức hát trong những buổi hội hè, hát lúc lên rẫy ra nương.
Trâu từng đàn quay sừng chống hổ, hổ bỏ chạy,
Dao nhiều cây cùng chặt về một hướng, hạ ngã trăn rừng.
Một bờ cây dày chắn ngang cơn gió xoáy,
Ta bện thừng lòng dân mọi bản về với Bác Hồ.
Được giải phóng khỏi ách nô lệ, dân ca chuyển thành lời ca, tiếng hát ca ngợi cách mạng, ca ngợi Bác Hồ, động viên bộ đội, nhân dân đi chiến đấu, quyết tâm kháng chiến đến cùng, xây dựng căn cứ cách mạng ở A Lưới:
Chim Acrot nhớ thương bay về quê mẹ,
Cho con hươu, con nai tìm lại cỏ non.
Mở đường 12 cho xe ngược xuôi qua lại,
Mở rộng sân bay để đón Cụ Hồ,
Và A Lưới quê mình cả một bài thơ.
Đại thắng mùa xuân năm 1975 thống nhất đất nước, hòa bình, độc lập, tự do cho nhân dân cả nước. Nhân dân Bình Trị Thiên đã vui cái vui chung của dân tộc mà trong lòng vẫn luôn nhớ công ơn của Bác Hồ, tự nguyện đứng ở mũi nhọn của cuộc chiến đấu, luôn luôn cảnh giác trước mọi thủ đoạn của kẻ thù.
Nay lúa tốt khoai tươi cũng nhờ sức người vun xới,
Cách mạng giải phóng rồi cũng nhờ Bác Hồ tranh đấu dẻo dai.
Các bạn đồng chí ơi gắng công chống giặc, chống mãi, chống hoài,
Chống răng chừ chúng ra khỏi nước mới đem lại tương lai hòa bình.
Thật không thể nói hết được tình cảm của người dân Bình Trị Thiên với Bác Hồ. Những lời lẽ chân thành mộc mạc qua thơ ca dân gian nêu thể hiện được tấm lòng của người dân Bình Trị Thiên đối với Bác Hồ và Bác Hồ với người dân Bình Trị Thiên.
T.N.K.P
(TCSH395/01-2022)
------------------------------
(1). Lê Tiến Dũng, Trần Hoàng: Cụ Hồ ở giữa lòng dân. Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2000, tr 5.
TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.
NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.
Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.
ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!
ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)
MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.
NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.
VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.
Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.
CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.
ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.
HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.
FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.
Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.
ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.
PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.
NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.
TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.
Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.