"Người đàn bà không hoá đá" - một cách hiện diện ở đời

16:13 23/04/2009
BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.

Nguyễn Thế Tường sinh ra bên dòng Kiến Giang thuộc vùng chiêm trũng Lệ Thuỷ - Quảng Bình. Anh đã từng là sinh viên khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp. Sau đó nhập ngũ, là lính tăng thiết giáp và đã tham chiến tại Quảng Trị vào năm 1973, thời điểm ác liệt nhất của cuộc chiến tranh giải phóng. Dễ nhận thấy cái lý lịch “trích ngang” ấy đã trở thành chất liệu thẩm mỹ, thẩm thấu trong từng trang viết của Nguyễn Thế Tường. Cũng như nhiều người viết ở lứa U 50, cái tôi tự sự của Nguyễn Thế Tường luôn ngoái lại những ngày đã qua, mải miết “lội” ngược dòng, âm thầm phục sinh trong không gian, thời gian của quá khứ, của hồi ức và kỷ niệm. Khi là “một hạt bụi nào đó trong đáy sâu bộ nhớ tôi chợt động cựa”, khi là “những dòng kỷ niệm khẽ khàng nhỏ từng giọt sánh như mật”. Cứ như thế thời gian quay ngược lại nhiều chục năm về trước. Dõi theo mạch tự sự đồng hành cùng quá khứ của Nguyễn Thế Tường, người đọc thấy thấp thoáng hình bóng của người viết, như tự thuật về mình, về thế hệ mình. Vì vậy trong từng trang của Người đàn bà không hoá đá, người đọc như cũng nhận thấy bóng dáng mình, bóng dáng của bạn bè và cả cái thời mình đã sống với những niềm yêu, nỗi nhớ cùng những hoài bão và ước vọng...

Hàng ngày, hàng giờ sống trong một hiện tại bị phong toả bởi cuộc mưu sinh với bao lo toan, bận rộn, các nhân vật của Nguyễn Thế Tường đã hơn một lần vượt thoát về quá khứ. Dường như với Nguyễn Thế Tường, cái quá khứ đẹp như huyền thoại, đầy mê hoặc không chỉ làm giàu có mà còn là sức mạnh nâng đỡ tinh thần con người trong đời sống hôm nay. Dòng ký ức của các nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Thế Tường có những trường đoạn thuần khiết, ngọt ngào với trò chơi “chấp me - che muống” của trẻ nhỏ, mang đậm bản sắc địa phương, ồn ào mà gợi cảm (Tiếng hú trên đồng). Là những cuộc lang thang đầy thú vị của đám trẻ nghèo trong làng, bất ngờ “khám phá” ra một không gian đầy ánh sáng và màu sắc: “vàng mơ hoa giêng giếng”. Loài hoa có cái tên là lạ với màu vàng rất riêng của nó mãi mãi ám gợi ký ức tuổi thơ của nhân vật tôi (Hoa giêng giếng). Là hình ảnh dịu dàng, với cái nhìn chia sẻ, khích lệ của cô giáo năm xưa đã xua tan mặc cảm thân phận của một cậu bé nghèo phải ở truồng đến lớp học vỡ lòng, mà ngay từ thời ấy, cậu bé chỉ mơ ước có cái quần để mặc đi học (Bài học đầu tiên).

Đọc truyện ngắn Nguyễn Thế Tường, người đọc có cảm giác anh là người không quên thời gian, luôn sống với thời gian hai chiều quá khứ và hiện tại. Và như thế trong văn xuôi Nguyễn Thế Tường, tiếng của ngày qua luôn đồng vọng với hôm nay. Người đọc cảm nhận được từng khoảng sống của người viết qua những kỷ niệm về thời sinh viên hoá thân trong nhân vật tôi hay nhân vật ở ngôi thứ ba nào đó, gắn với một thời gian khó trong những lớp học, những bữa cơm sinh viên nơi sơ tán. Là những cuộc đối thoại hoà trộn chất lính và chất sinh viên, đặc biệt là những giai thoại vui nhộn, hài hước của người lính vốn là cựu sinh viên văn khoa. Và cảm hứng sáng tác của Nguyễn Thế Tường như lãng mạn hơn khi viết về những thoáng cảm đầu đời, phảng phất hương vị tình đầu trong ngôn ngữ của ánh mắt, của hơi ấm bàn tay với người bạn gái thuở sinh viên. Những cảm giác ấy “như nỗi nhớ dây dưa” cứ đeo đuổi, bám riết nhân vật từ ngày tạm biệt giảng đường đại học cho đến những ngày là lính tăng thiết giáp trên một vùng đồi huấn luyện ở miền Bắc hay trước giờ tham chiến tại Quảng Trị và thậm chí ngay cả trong cuộc sống đời thường hôm nay (Trận đánh cuối cùng).

Trong thế giới truyện ngắn của Nguyễn Thế Tường, người đọc như bị ám ảnh với những nhân vật là những con người bình thường, giản dị trong các truyện Thím Thao, Bà Kiểm điên, Người đàn bà không hóa đá, Người chưa gặp, Tìm em, Trận đánh cuối cùng. Những nhân vật của Nguyễn Thế Tường là những con người ta vẫn gặp thường ngày rồi nhanh chóng lướt qua. Nhưng Nguyễn Thế Tường đã không quên và luôn trăn trở về họ. Với một cái tôi mẫn cảm, giàu trắc ẩn, Nguyễn Thế Tường đã hướng ngòi bút vào những tình huống, cảnh ngộ, khiến ta không thể lãnh đạm, gợi cho ta phải nghĩ ngợi, phải nhìn lại sự vô cảm, hờ hững của chính mình. Trong các truyện nói trên, Nguyễn Thế Tường tạo dựng được những tình tiết bất ngờ, kích thích sự tò mò của người đọc nhưng anh không bị sự kiện và tình tiết lôi kéo mà quan tâm đến tính cách và thân phận con người trong những hoàn cảnh cụ thể. Đó là phẩm chất trung thực, hết lòng vì công việc của một phụ nữ làm công tác kiểm ngân, cái phẩm chất ấy mãi theo bà như một “hội chứng” lúc về già (Bà Kiểm điên); là người công an âm thầm làm một công việc bình thường nhưng hữu ích, thậm chí phải đổ máu, hy sinh cho sự bình an của cuộc sống con người, bảo vệ đường hầm của tuyến đường sắt Bắc Nam (Người chưa gặp).

Người đàn bà không hoá đá là một truyện hay kể về một người đàn bà không chịu đầu hàng số phận, không chịu “hoá đá”, vượt lên định kiến của xã hội, tự tìm niềm vui, sự sống cho chính mình và cũng là cách thế hiện diện ở đời của những người đàn bà cùng cảnh ngộ như chị. Người đọc không khỏi rưng rưng cảm động về sự quên mình của chị Bùi, nhân vật trong truyện hơn một lần chờ đợi trong chiến tranh và trong cả thời bình, đã nuốt vào bên trong bao nhiêu giọt buồn, giọt nhớ, cuối đời nhọc nhằn sống và âm thầm cam chịu bên người chồng vô tri vô giác, đã từng là chiến sỹ ngoan cường trên đoàn tàu không số năm nào. Chỉ từng là lính xe tăng, Nguyễn Thế Tường mới hiểu được một sự thật luôn làm ta nhức buốt: “Trong chiến tranh, anh bộ binh chân bước trên đất, nằm xuống trong đất. Anh lính thuỷ hy sinh trên biển còn được sóng đánh vào bờ. Cả người phi công bay trên trời có mệnh hệ nào cũng được rơi xuống đất mẹ. Còn người lính xe tăng chết lại được hoả táng trong xe thành khói bay lên trời”. Điều đó giải thích vì sao nhân vật người chị trong truyện Tìm em đã đến tận nơi xảy ra trận đấu tăng lịch sử vào thời điểm nóng bỏng của cuộc chiến ở Cửa Việt để tìm hài cốt người em trai mà không thấy mộ, toàn thấy những cát là...cát và chỉ có thể bốc một nắm cát trắng đem về với nỗi đau không thể nói thành lời. Đằng sau dáng vẻ đời thường, bình dị đến khiêm nhường, các nhân vật của Nguyễn Thế Tường dường như tiềm ẩn sức mạnh khả dĩ chống đỡ với những hiểm nghèo, những rủi ro, những đau đớn giáng vào chính họ. Những con người bình thường mà cao khiết hiện diện trong văn xuôi của Nguyễn Thế Tường khiến tôi nhớ tới những câu thơ trong bài thơ Chẳng có ai tẻ nhạt mãi trên đời của Evtushenko, nhà thơ lớn của nước Nga: Dẫu anh sống chỉ một đời lặng lẽ / Quen với cái lặng thinh không tô vẽ cho mình / Thì lại chính cái lặng thinh nhường ấy / Biến anh thành đáng nhớ với xung quanh” (Bằng Việt dịch - Thơ trữ tình thế kỷ XX.Nxb Văn học,2005).

Trong tập Người đàn bà không hoá đá, Nguyễn Thế Tường không chỉ tỏ ra sở trường và có nghề khi khai thác chất liệu cái tôi, vớái những gì gần gũi và thuộc hiểu như mảnh đất Quảng Bình quê anh, như đời sống của cánh lính tăng thiết giáp mà khi đến với những sáng tác ngoài mình như Đăm noi, anh cũng gây được ấn tượng về cuộc sống và con người Tây Nguyên. Cái cách lồng nhân vật của huyền thoại vào nhân vật của hiện tại, gắn không khí sử thi vào bối cảnh hôm nay buộc con người của hôm nay phải sống thật với chính mình, với quá khứ của chính mình là một minh chứng cho sự nỗ lực trong lao động nghệ thuật của người viết.

Trong truyện Nguyễn Thế Tường thường được kết cấu theo kiểu chuyện lồng trong chuyện, Với cốt truyện kép, tạo ra nhiều điểm nhìn trần thuật (Người đàn bà không hoá đá, Người chưa gặp, Bài học đầu tiên, Đăm Noi,...). Trong tập Người đàn bà không hoá đá, người đọc bắt gặp không ít những tình huống ly kỳ, hấp dẫn nhưng người viết không sa vào vụ việc mà đẩy con người lên phía trước với tất cả những gấp khúc của cuộc đời và thân phận, chính vì vậy mà câu chuyện vướng mắc trong tâm trí người đọc, dù trang sách đã khép lại. Đoạn kết trong truyện ngắn của Nguyễn Thế Tường thường “mở”, buộc người đọc cùng nghĩ ngợi, liên tưởng và đồng sáng tạo.

Với Người đàn bà không hoá đá, một lần nữa Nguyễn Thế Tường chứng tỏ sức viết của một ngòi bút đã ổn định nhưng không dừng lại với những gì đã quen thuộc. Trong một chừng mực nào đó, tác giả của Người đàn bà không hoá đá đã có những bứt phá, đổi mới so với bốn tập truyện và ký trước đó của anh. Trên hành trình sáng tạo tiếp theo, người đọc mong muốn Nguyễn Thế Tường mở rộng hơn “vùng phủ sóng” đồng thời dứt khoát hơn trong lựa chọn thể loại, tránh được sự dùng dằng giữa truyện và ký (Những đứa con của cát, Hai người lính). Thời gian gần đây, ngòi bút Nguyễn Thế Tường “theo dòng lịch sử”, đã chạm đến những tầng vỉa của một quá khứ xa, là một phần không thể thiếu của lẽ sống hôm nay. Và những bài viết trở về nguồn đứng tên Nguyễn Thế Tường vẫn lần lượt được đăng tải hàng tuần trên Văn nghệ Trẻ.

B.T
(202/12-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.