Ý nghĩa của văn học trong thời đại tiêu dùng

10:32 16/09/2008
TƯỞNG THUẬT TRÁC Có phải hiện nay văn học đang đối mặt với thời đại tiêu dùng hay không? Nhiều người còn hoài nghi vấn đề này. Thậm chí có người còn phủ định sự có mặt của thời đại tiêu dùng trong khi miền Đông và miền Tây Trung Quốc đang có sự không cân bằng và tất cả đều đang xây dựng một xã hội khá giả.

Học giả người Pháp Jean Baudriard đã nêu lên giai đoạn thứ tư của sự biến đổi lịch sử đó là giai đoạn xã hội tiêu dùng (Mác đã nêu 3 giai đoạn là: giai đoạn tiền hàng hoá, giai đoạn hàng hoá và giai đoạn hàng hoá hoá). Trong xã hội tiêu dùng, không phải chỉ có hàng hoá được sản xuất cực nhiều mà còn tạo ra đủ loại nhu cầu cho con người. Hành vi tiêu dùng của con người không chỉ là hành vi kinh tế mà đã chuyển hướng thành hành vi lối sống và hành vi văn hoá. Nhìn chung xu thế phát triển của kinh tế thế giới, toàn cầu bước vào xã hội tiêu dùng, điều này đã được đại đa số chuyên gia công nhận.

Nền kinh tế Trung Quốc đang ở trong thời kỳ chuyển nhanh sang kinh tế thị trường đồng thời cố gắng hoàn thiện nhanh nhất thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Mặc dù hiện nay đang có sự phát triển không cân bằng giữa miền Đông và miền Tây đất nước, giữa thành thị và nông thôn, miền núi, song về tổng thể, Trung Quốc đã bước vào giai đoạn giữa của xã hội tiêu dùng. Trong khi nhân dân được ổn định mức tăng trưởng thu nhập, nhu cầu cơ bản của cuộc sống là “ăn” đã thoả mãn, thì những chi phí về vui chơi, du lịch, nghỉ ngơi, cũng đã tăng thêm...
Trong thời đại tiêu dùng ngày nay, văn học đang đứng trước hai vấn đề lớn: Một là văn học thời đại tiêu dùng rốt cuộc là cái gì? Hai là ý nghĩa của văn học thời đại tiêu dùng là thế nào? Về vấn đề thứ nhất, mấy năm trước đây đã có nhiều thảo luận, tuy chưa đi tới một định luận song đã thấy được đường hướng mới. Còn vấn đề thứ hai, tức ý nghĩa của văn học thì nhiều nhà phê bình, nhà lý luận tỏ ra lo ngại: một là văn học nghệ thuật bị trở thành hàng hoá sẽ mất đi ý nghĩa văn học nghệ thuật, nhất là ý nghĩa giáo dục. Hai là trong quá trình kích thích tiêu dùng, các lĩnh vực khác sẽ vay mượn hoặc lợi dụng văn học nghệ thuật để thẩm mỹ hoá cuộc sống đời thường, sẽ làm cho “chất thơ” của văn học nghệ thuật loãng ra, làm mất đi sự hấp dẫn của văn học nghệ thuật. Ba là văn học nghệ thuật bị hàng hoá hoá sẽ mất đi tính sáng tạo và cả tính sáng tác, dẫn đến chỗ mất đi ý nghĩa của văn học.

Từ góc độ văn hoá kinh tế mà xét thì quá trình lưu thông hàng hoá văn học nghệ thuật không chỉ có lưu thông tiền của mà cũng có sản sinh và lưu thông ý nghĩa, sự thích thú và tư cách xã hội, cho nên độc giả (hoặc người cảm thụ) cũng có tiếp nhận được những thứ đó. Họ sẽ chọn lựa loại văn học nghệ thuật nào đó là quan niệm về giá trị văn hoá của họ. Ý nghĩa và sự thú vị của văn học nghệ thuật trong quá trình lưu thông có khi nhiều khi ít, khi mạnh khi yếu, song không phải do lưu thông mà chủ yếu do bản thân nó. Từ góc độ truyền bá mà xét thì văn học nghệ thuật là thứ hàng hoá trao đổi càng nhiều thì ảnh hưởng ý nghĩa càng lớn, hiệu ích xã hội của nó càng nhiều, giá trị xã hội của nó cũng tăng lên. Nếu có được nhiều cơ hội trao đổi, lưu thông thì văn học nghệ thuật ở tư cách hàng hoá càng phải suy nghĩ nghiêm túc về giá trị nghệ thuật và ý nghĩa xã hội của mình, vì hàng hoá nghệ thuật mà dở chỉ khiến khẩu vị của người tiêu dùng chán ngán và sẽ nhanh chóng bị đẩy ra khỏi thị trường. Ở khía cạnh kinh doanh, nghệ thuật thành hàng hoá cũng phải dựng cho mình một ý thức về thương hiệu, phải làm sao càng tinh xảo đẹp đẽ, thu hút được nhiều người tiêu dùng. Giống như phim điện ảnh và các sáng tác khác của Trương Nghệ Mưu, đạo diễn nổi tiếng thế giới này đã tạo được một không khí duy mỹ bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật, đã tìm mọi cách để giành được thị trường và người tiêu dùng. Ông muốn đi con đường thị trường, nhưng thực tế, sau khi làm thành công hai phim “Cao lương đỏ” và “Thu Cúc đi kiện”, ông tiếp tục đi tìm con đường thị trường hoá điện ảnh, đã làm cho một số đề tài bình thường trở thành nổi rộ (như “Một người không thể thiếu”, “Cha mẹ tôi”), nhưng sau người ta phê bình phim “Anh hùng” và “Thập diện mai phục” của ông, họ cho rằng thật sự không thành công, đó là do chỉ chú ý dựng “thương hiệu” mà không nắm chắc mối quan hệ giữa ý nghĩa tốt của văn học và thị trường, dẫn đến ảnh hưởng cho hiệu quả thị trường. Chắc ông đã có suy nghĩ và tổng kết những bài học kinh nghiệm, nên phim “Ấn tượng chị Ba Lưu” đã có tiến bộ.

Văn học nghệ thuật sau khi trở thành hàng hoá và được lưu thông có bị giảm chức năng giáo dục không? Hoặc có thoái đạo đức không? Vấn đề này không tuyệt đối. Phải công nhận rằng nó sẽ chú trọng đến thị trường nhiều hơn song nó không có mối liên hệ tất nhiên với sự suy thoái đạo đức, cũng như sự phát triển kinh tế thị trường không có mối quan hệ tất nhiên với sự mất đạo đức. Từ thế kỷ 18, rõ ràng có “khủng hoảng đạo đức” sau khi có sự xâm nhập của tư bản vào sản xuất văn hoá, như nhà bình luận văn hoá người Anh đã nói: “Thế kỷ 18, sự phát triển của tiểu thuyết đã bị công kích rộng rãi, rằng về đạo đức, tiểu thuyết có hại cho những phụ nữ yếu đuối và loại người hầu hạ, mà họ lại là những người tiêu dùng loại này nhiều nhất. Từ nhà thơ đến giới bình luận đều đả kích tiểu thuyết. Hiện tượng này lặp lại đối với điện ảnh những năm 30 của thế kỷ 20 và đối với ti vi của những năm 50. Sự khủng hoảng này tập trung vào trẻ em và thanh thiếu niên non trẻ. Người ta sợ rằng chúng sẽ bị ảnh hưởng bạo lực. Ở Trung Quốc, chính kịch và tiểu thuyết thời Minh Thanh nổi lên cũng bị phê phán đạo đức, bị cho là “hối dâm hối đạo”, có quan địa phương còn cấm diễn “dâm kịch”. Ngay cả gần đây, người ta còn sợ phim “Hoàn Châu cách cách”, hình tượng Hoàn Châu có thể ảnh hưởng đến đạo đức của thanh thiếu niên. Ngày nay, loại tiểu thuyết và điện ảnh “ma giới” xuất hiện, lại có người lo thanh thiếu niên sẽ rơi vào ảo tưởng, không phân biệt được lịch sử và hiện thực, rồi làm những chuyện bậy bạ. Song họ không nghĩ đến những tác động tích cực. Thí dụ truyện “Harry Potter” cũng có nhiều điều chính nghĩa, có giáo dục luân lý thiện ác. Ca nhạc cũng vậy, có những bài hát rất tốt.

Trong xã hội tiêu dùng ngày nay, văn học nghệ thuật thường bị các hiện tượng văn hoá khác như quảng cáo truyền hình, biểu diễn thời trang, giới thiệu thương phẩm, các hội hè... vay mượn để dùng cho đại chúng. Sự vay mượn này tạo thành nhiều hiện tượng Á văn học nghệ thuật, mở rộng biên giới của văn học, hình thành sự thẩm mỹ hoá cuộc sống đời thường. Vậy nên ứng phó thế nào?
Trước hết, cần thấy rõ sự vay mượn đó không phải là chuyện có hại. Trong lịch sử, văn học nghệ thuật luôn bị tôn giáo vay mượn, như âm nhạc nhà thờ, hội hoạ nhà thờ... Tôn giáo thấy rõ sức hấp dẫn của văn học nghệ thuật. Ngày nay, quảng cáo mượn văn học nghệ thuật làm tăng sức hấp dẫn quảng cáo, lại có thể có loại văn học quảng cáo - một thể tài mới. Ca vũ quy mô lớn cũng có thể thành một hình thức độc lập. Văn học thông tin, văn học mạng. Theo quan điểm của Mác: sau khi điều kiện sản xuất vật chất bao gồm kỹ thuật có sự biến đổi thì hình thái ý thức bao gồm những cái thuộc thượng tầng kiến trúc (văn học nghệ thuật,...) sẽ có sự biến đổi hoặc nhanh hoặc chậm. Thời đại nào có văn học nghệ thuật của thời đại đó, trong thời đại thông tin, thời đại tiêu dùng ngày nay, văn học nghệ thuật được mở rộng, có thay đổi, là điều dễ hiểu và dần dần có thể chấp nhận.

Thứ nữa, văn học nghệ thuật bị vay mượn dẫn đến thẩm mỹ hoá đời thường, điều đó cũng không xấu mà lại hay. Trong tiến trình xây dựng xã hội khá giả, nhu cầu sinh hoạt của nhân dân chỉ có thể ngày càng mạnh, vấn đề ăn, mặc, đi, ở càng ngày càng theo xu hướng thẩm mỹ hoá. Tặng quà có kèm thêm mấy câu thơ Đường. Đồ gia dụng đẹp... kích thích tiêu dùng có lợi cho tiêu thụ, lẽ nào tính nghệ thuật ở đó chỉ gây phản cảm? Cuộc sống đời thường được thẩm mỹ hoá hiện tượng Á văn học nghệ thuật lẽ nào không đem lại sự hưởng thụ đẹp đẽ cho đại chúng? Ý thơ có tản rộng ra một chút có gì là không ổn?
Cũng cần phải có sự lý giải mới về vấn đề ý thơ trong xã hội tiêu dùng như thế nào?

Hãy nói về hội họa Trung Quốc. Xưa miêu tả cảnh rừng sâu núi cao, ngư tiều, chùa miếu, xem đó là ý thơ. Đến khi Cao Kiến Phú sáng lập ra “Sầm họa phái”, rồi Tề Thạch Thạch - vị quốc họa đại sư, chuyên miêu tả người bình dân và những đồ vật thường dùng của bình dân, đó không thể nói là không có ý thơ. Từ Bi Hồng vẽ ngựa cố nhiên là phù hợp với ý thơ truyền thống. Song những tranh tả thực tả sử như “Điền hoành ngũ bách tráng sĩ” cũng có ý thơ. Nhiều hoạ sĩ đưa những hiện tượng đời thường vào hội hoạ, cũng có ý thơ. Giới tranh dầu hiện nay cũng có khuynh hướng vẽ về cuộc sống thường ngày. Nghĩ cho kỹ, những tác phẩm hoạ ưu tú phương Tây, xưa kia phần lớn là miêu tả cuộc sống thường ngày như tắm gội, trang điểm, tiệc tùng... rất thời thượng mà cũng giàu ý thơ. Các họa sĩ thời nay vẽ về cuộc sống đời thường nếu suy nghĩ sâu sắc cũng có thể có ý thơ như vậy. Thời đại khoa học kỹ thuật, dùng máy móc phục chế tác phẩm cũng hay, khiến nghệ thuật trở thành thứ của đại chúng, khiến chức năng, giá trị của nghệ thuật và sự tiếp nhận đều có thay đổi căn bản. Vậy thì ý thơ cũng có thể thay đổi chứ. Có thể quan niệm rộng hơn về ý thơ. Như Haiđơgơ (Heideger) nói: con người nên sinh sống có ý thơ trên trái đất này. Ý thơ ở đây không chỉ có nghĩa là con người cần có thú vui tinh thần mà còn có những mối quan hệ hài hoà giữa con người với thiên nhiên, với con người, với xã hội. Văn nghệ đương đại có đầy đủ những tư tưởng sâu sắc và phong phú thức tỉnh con người đang mê mẩn trong vòng vật chất, khiến con người có lại được hi vọng và niềm tin đối với cuộc sống hợp lý trong hiện thực, đó chẳng phải là “ý thơ” trong xã hội ngày nay sao?

Còn vấn đề văn học nghệ thuật trở thành hàng hoá có làm mất đi tính sáng tạo và cá tính nghệ thuật của văn học nghệ thuật không? Đây cũng là vấn đề đang tranh cãi. Hiện nay, trong tình hình sản xuất văn nghệ hoặc sản xuất văn hoá, cố nhiên là có vấn đề mất đi tính sáng tạo và cá tính nghệ thuật vì đã là hàng hoá lưu thông tất nhiên sẽ có một số người sản xuất loại hàng hoá đó. Song khẩu vị của người mua cũng có thay đổi, đến một lúc nào đó họ sẽ không hài lòng với loại hàng thông dụng mà đòi hỏi hàng “tinh phẩm” hơn. Thực ra trong xã hội tiêu dùng cạnh tranh kịch liệt, văn học nghệ thuật trong thị trường cạnh tranh cũng phải cố gắng, nếu không có cá tính mạnh và sức sáng tạo thì người tiêu dùng cũng không mua. Người sản xuất nghệ thuật giỏi phải nghĩ tới nhu cầu thị trường song vẫn phải kiên trì lý tưởng nghệ thuật và cá tính nghệ thuật. Balzac đã từng viết cho thị trường, song trong rất nhiều sáng tác ông vẫn lưu lại một số “tinh phẩm” giàu tính sáng tạo. Sáng tác của Sếch-spia cũng từng đón chào khẩu vị của đại chúng, song tác phẩm ưu tú của ông vẫn nhiều nhất trong các tác gia kịch. Trong xã hội tiêu dùng, ngay sản xuất sản phẩm vật chất cũng phải có phẩm bài có cá tính mới thu hút được người mua như đồng hồ, máy giặt... Người thiết kế cũng phải tìm cách cá tính hoá và sao cho độc đáo. Gần đây, có hiện tượng khách hàng thông qua mạng để tham dự vào quá trình sản xuất, từ đề xuất mẫu sản phẩm cá tính hoá, rồi nhà sản xuất tiếp thu. Ở Thuỵ Sĩ một số nhà máy sản xuất đồng hồ để khách hàng tham dự việc thiết kế.

Tác phẩm văn học nghệ thuật là sản phẩm tinh thần lại càng cần đại chúng bình luận. Chính kịch, điện ảnh, ti vi, nếu thiếu tính sáng tạo và cá tính sẽ bị người xem bỏ qua một cách vô tình. Do đó, trong thời đại kinh tế thị trường và tiêu dùng, nghệ thuật trở thành hàng hoá càng yêu cầu cao đối với sáng tạo nghệ thuật, mấu chốt là ở chỗ nhà nghệ thuật và nhà lý luận có thể đáp ứng được thách thức đó và cho ra những tác phẩm có tính sáng tạo được hay không.
Ở trên tôi đã biện hộ cho vấn đề ý nghĩa của văn học trong thời đại tiêu dùng, mục đích là để tìm hiểu một cách tích cực và chính diện giá trị tồn tại của văn học và tương lai phát triển của văn học. Tôi cảm thấy giới lý luận, phê bình hiện đang quá bi quan đối với vấn đề trên. Một số người cho rằng văn học hiện nay do bị kinh tế thị trường và quan niệm giá trị đa nguyên tấn công nên ý nghĩa của nó đang nghèo nàn hoá, bình diện hoá, dung tục hoá, thậm chí có người giữ lập trường “phái tả mới”, cho rằng văn học đã hoàn toàn mất đi tính phê phán và rơi vào vòng nô lệ của đồng tiền và nhục dục. Tôi cho rằng cách nhìn này đã thiếu biện chứng. Tôi không phủ nhận hiện nay văn học có những tệ hại song những tệ hại này chỉ có thể giải quyết bằng sự phát triển. Phát triển chính là cách để văn học tồn tại và phát triển. Từ những năm 90 của thế kỷ 20 đến nay, văn học đã phát triển rất mạnh. Thí dụ đầu những năm 90, các nhà văn và nhà phê bình bắt đầu coi trọng tự sự, thực hiện sự chuyển biến quan trọng từ “viết cái gì?” đến “viết thế nào?”. Thể loại cũng phát triển chỉ riêng tản văn đã có nhiều đột phá. Tiểu thuyết có nhiều tác phẩm giá trị không kém những năm 80. Rồi mối quan hệ giữa văn học và điện ảnh khiến phim truyền hình rất phát triển. Phim truyền hình lại có tác dụng mở rộng ảnh hưởng của văn học, thu hút được rất nhiều người thưởng thức... Điều này đã làm phong phú thêm nhu cầu giải trí văn hoá, giải trí về tinh thần của đại chúng nhân dân. Có thể khẳng định rằng văn học hiện nay không hề suy thoái và tụt dốc, lại càng không phải sắp đến hồi “chung kết”. Nếu hiện nay văn học đang vô nghĩa, vô giá trị, đang làm nô lệ cho đồng tiền vậy thì nó còn có tương lai gì nữa? Phát triển nó còn có ý nghĩa gì nữa? Xã hội tiêu dùng quả đã là khắc tinh của văn học hay sao? Thời đại kỹ thuật quả khiến văn học biến mất trên trái đất này sao? Tôi nghĩ vị tất đã vậy. Thử xem thời Tống - Nguyên - Minh, văn học cũng đã từng đối diện thị trường, từng trải qua thời kỳ tiêu dùng và nhục dục quá đáng, nhưng thoại bản thời Tống - Nguyên chẳng để lại nhiều giai tác đó sao? “Tam ngôn nhị phách” chẳng phải là tác phẩm văn học kinh điển sao? “Kim Bình Mai” được tranh cãi nhiều đã chẳng xôn xao thế kỷ 21 đó sao? Những cái đó xưa cũng đã từng được thị trường và đại chúng hoan nghênh. Chúng cũng đã trở thành một bộ phận và một khâu “có ý nghĩa” trong văn học Trung Quốc. Văn học ngày nay trước sự thách thức của kinh tế thị trường và xã hội tiêu dùng, cũng đang tìm tòi và suy nghĩ để định vị, để có ý nghĩa mới, giá trị mới, có những chuyển biến và cơ cấu mới. Tôi thấy tràn đầy hi vọng đối với tương lai của văn học thời đại tiêu dùng.

Văn học là nhân học, là hoạt động tinh thần quan tâm đến con người, nghiên cứu con người, nghiên cứu xã hội, giữa con người với con người. Xưa nay, văn học bao giờ cũng tràn đầy tình yêu đối với con người và xã hội, có ca ngợi, có phê phán, đều là vì tương lai tươi đẹp hơn của loài người và xã hội. Từ thế kỷ 20, văn học hiện đại chủ nghĩa ra đời cho đến nay, dường như văn học phần nhiều biểu hiện những cái tuyệt vọng của con người, của xã hội, song đúng như A-tô-nốp đã nói, người ta đang làm như kiểu Káp-ka, thấy được hy vọng trong nỗi tuyệt vọng và sẽ được giải cứu. Từ sự phê phán mà được giải cứu, từ trong tuyệt vọng mà thấy hy vọng đó chính là chất nhân văn của văn học. Nói theo ngôn ngữ của Phật thì đó là đại từ bi. Việc nghiên cứu văn học và văn hoá sở dĩ có sự tương thông là vì về bản chất, chúng đều mang tinh thần phê phán, đều rất quan tâm cứu vãn xã hội loài người. Tinh thần nhân văn đó sẽ không lỗi thời trong thế kỷ 21, và sau này cũng sẽ không thể lỗi thời, trừ phi văn học không phải do con người sáng tác ra nữa. Tinh thần nhân văn ở mỗi thời đại có hình thức biểu hiện khác nhau. Ở thế kỷ 21, văn học và việc nghiên cứu văn học chỉ cần kiên trì sự phê phán, cứu vãn đồng thời thực hiện sự vượt lên hiện thực thì phương hướng lớn sẽ không thể sai. Có lẽ đó là nguyên nhân khiến văn học vẫn cứ được mọi người yêu mến mà không bị rơi vào chung kết, không bị vứt bỏ.
PHẠM THỊ HẢO dịch

(nguồn: TCSH số 227 - 01 - 2008)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGPhân tâm học ra đời trong ánh bình minh của thế kỷ hai mươi. Ảnh hưởng của nó đối với sáng tạo và phê bình văn học khởi đi từ cuốn “Diễn dịch các giấc mơ” của Freud và được nối dài sau đó bởi nhiều công trình của các tác giả khác nhau.

  • CAO HUY THUẦNToàn cầu hóa đang là một xu thế, một hiện tượng rộng lớn bao trùm khắp thế giới, không chỉ về kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa và đời sống. Toàn cầu hóa và chống toàn cầu hóa đã trở thành vấn đề thời sự của thế giới. Trong bối cảnh đó, yêu cầu gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một đòi hỏi cấp thiết, có tính sống còn của mỗi dân tộc khi phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa.Sông Hương xin giới thiệu một phần bài viết của Cao Huy Thuần như một góc nhìn thú vị về những vấn đề gai góc của thời đại.

  • NGUYỄN VĂN DÂN(*)LTS: Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ 2 của Hội Nhà văn Việt Nam diễn ra 2 ngày 4 và 5 tháng 10 năm 2006 đã khép lại nhưng âm vang của nó vẫn còn “đồng hiện” theo 2 cực... buồn vui, cao thấp. Song, dù sao nó cũng đã phản ánh đúng thực trạng, đúng “nội tình” của đời sống văn học nước nhà.

  • PHẠM PHÚ PHONGMấy chục năm qua, người đọc biết ông qua những kịch bản thơ, những bài thơ viết về tình bạn, tình yêu; về những cuộc chia tay lên đường ra trận; về đất và người Hà Nội đầy khí thế hoành tráng của tâm thế sử thi; nhưng cũng có khi bí hiểm, mang tâm trạng thế sự buồn cháy lòng của một người sống âm thầm, đơn độc, ít được người khác hiểu mình.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Tư- duy tự- do của Phan Huy Đường*)

  • TRẦN HOÀI ANHBáo Văn nghệ trong lời giới thiệu những bài thơ mới nhất của Nguyễn Khoa Điềm số ngày 5/8/2006 cho biết: “Bây giờ ông đã trở về ngôi nhà của cha mẹ ông ở Huế. Tôi chưa bao giờ đến ngôi nhà ấy”. Còn tôi, người viết bài này đã có “cơ may” ở trọ tại ngôi nhà yên bình ấy trong những năm tám mươi của thế kỉ trước khi tôi đang là sinh viên ngữ văn Đại học Sư phạm Huế.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆN(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Lan Khai (1906-2006)Đầu năm 1939, Vũ Đình Long, chủ Nhà xuất bản Tân Dân có sáng kiến xin giấy phép xuất bản ấn hành tạp chí TAO ĐÀN. Đây là tạp chí chuyên ngành về văn học đầu tiên trong làng báo ở ta trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.

  • NGUYỄN TÀI CẨN, PHAN ANH DŨNG1/ Tiến sĩ Đào Thái Tôn vừa cho xuất bản cuốn “Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều: bản Liễu Văn Đường 1871”. Chúng tôi thành thực hoan nghênh: hoan nghênh không phải vì trong cuốn sách đó có những chỗ chúng tôi được Tiến sĩ tỏ lời tán đồng, mà ngược lại, chính là vì có rất nhiều chỗ Tiến sĩ tranh luận, bác bỏ ý kiến của chúng tôi.

  • TÔN PHƯƠNG LAN1. Phong Lê là người ham làm việc, làm việc rất cần cù. Anh là người suốt ngày dường như chỉ biết có làm việc, lấy công việc làm niềm vui cho bản thân và gia đình. Anh sống ngăn nắp, nghiêm túc trong công việc nhưng là người ăn uống giản đơn, sinh hoạt tùng tiệm.

  • THỤY KHUÊLGT: “Thụy Khuê là một nhà phê bình văn học Việt Nam sắc sảo ở Pháp” (Trần Đình Sử, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXBGD Hà Nội, 2005) Bà đã viết về mục tác giả Bùi Giáng và một số tác giả miền Nam trước 1975 cho “Tự điển văn học” bộ mới. Bài viết về Thanh Tâm Tuyền cũng dành cho bộ Từ điển nói trên. Chúng tôi đăng bài viết này để tưởng nhớ nhà thơ Thanh Tâm Tuyền vừa mới qua đời.

  • HỒ THẾ HÀĐồng cảm và sáng tạo (*): Tập phê bình-tiểu luận văn học mới nhất của nhà phê bình nữ Lý Hoài Thu. Tập sách gồm 30 bài viết (chủ yếu là phê bình-tiểu luận và 5 bài trao đổi, phỏng vấn, trả lời phỏng vấn), tập trung vào mảng văn học hiện đại Việt Nam với sự bao quát rộng về đề tài, thể loại và những vấn đề liên quan đến phê bình, lý luận văn học, đời sống văn học từ 1991 đến nay.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHHôm Tết vừa rồi, anh Đỗ Lai Thúy ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng và có tặng tôi một tập sách. Nội dung, anh đã phác thảo chân dung học thuật của 17 nhà nghiên cứu. Công trình thật là công phu, khoa học, nhiều thao tác tư duy, nhiều tầng bậc chiêm nghiệm... hàm tàng một sở học nghiêm túc, đa diện và phong phú.

  • TRÚC THÔNGLTS: Cuộc hội thảo Thơ Huế trong mạch nguồn thơ Việt do Hội Nhà văn TT Huế tổ chức nhân dịp Festival Thơ Huế 2006 đã “truy cập” được nhiều nhà thơ, nhà lý luận- phê bình tham dự.Tiếp theo số tháng 6, trong số tháng 7 này, Sông Hương xin trích đăng thêm một số tham luận và ý kiến về cuộc hội thảo nói trên.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrước hết tôi muốn phân định một khái niệm thơ Huế, ít nhất là trong bài viết này của tôi. Thơ Huế là một khái niệm tưởng cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thế nào là thơ Huế? Có phải đó là thơ viết về Huế và thơ của người Huế viết. Mặc nhiên mọi người đều hiểu thế. Thơ viết về Huế thì có của người gốc Huế, người đang sống ở Huế và người ở khắp mọi nơi.

  • INRASARATham luận Festival Thơ Huế lần 2 tại Huế 05 và 06/6/2006Tràn lan cái giống thơ:Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để...tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động mươi năm qua là có thật. Không thể, và cũng không nên chê trách hiện tượng này. Thử tìm nguyên do.

  • TÂM VĂNĐã hơn hai thế kỷ rồi mà nay đọc bài “Lập học chiếu” (Chiếu chỉ thành lập trường học) của Ngô Thời Nhậm vẫn nóng lên như những dòng thời sự.

  • HỒ THẾ HÀVới điểm nhìn ngược chiều từ khởi đầu thế kỷ XXI (2006) hướng về cội nguồn khai sinh vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân - Huế (1306), chúng ta thấy vùng đất này đã có 700 lịch sử thăng trầm, vinh quang và bi tráng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGVô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo.

  • VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.