Ý nghĩa của “vắt nóc” trong Truyện Kiều

14:35 10/06/2024


ĐINH VĂN TUẤN

Tranh vẽ Kiều của nữ họa sĩ Ngọc Mai - Ảnh: tư liệu

Trong Truyện Kiều, ở câu 950: “Tú bà vắt nóc lên giường ngồi ngay”, hai chữ VẮT NÓC được viết là 蓐xuất hiện sớm nhất ở bản Nôm Đoạn trường tân thanh do Nguyễn Hữu Lập chép tay năm 1870, bản Kim Vân Kiều tân truyện do Liễu Văn Đường khắc in năm 1871 và Kim Vân Kiều tân truyện do Duy Minh Thị khắc in năm 1872 khắc là 勿; đa số các bản Truyện Kiều chữ Nôm sau đó đều khắc, viết như các bản trên. Có lẽ chính vì VẮT NÓC là một từ tối nghĩa nên đến bản Đoạn trường tân thanh do Kiều Oánh Mậu khắc in năm 1902, đã khắc là vắt vẻo  㧼, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim cũng nhắc đến bản này nên trong Truyện Thúy Kiều đã ghi chú: “có bản chép là vắt vẻo” (Tản Đà trong Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện, in năm 1941 cũng không đồng ý chữ “vắt nóc” nên sửa là “vắt vẻo” (chắc là theo bản Kiều Oánh Mậu) và Chiêm Vân Thị trong Thúy Kiều truyện tường chú đã viết là vắt chéo .

Xưa nay, các nhà chú giải Truyện Kiều vẫn tỏ ra lúng túng, mơ hồ khi chú giải, giảng nghĩa về hai chữ VẮT NÓC. Trong bản Quốc ngữ Kim Vân Kiều truyện in năm 1875, Trương Vĩnh Ký đã không cho chữ 蓐 là chữ Nôm nên đã hiểu đó là chữ Hán, nhục 蓐 nghĩa là cái nệm để đọc là “vắt nhục” chứ không đọc là “vắt nóc” và ông đã chú giải: “Nhục: - Mã nhục - Nệm. - Xách cái nệm bả trải mà khẩn đem lên giường lót mà ngồi” nhưng rõ ràng nghĩa lý này không phù hợp với văn cảnh (sau đến Abel des Michels trong bản Quốc ngữ Kim Vân Kiều tân truyện in năm 1898 cũng đọc là vắt nhục). Âm đọc VẮT NÓC lần đầu tiên xuất hiện trong bản Quốc ngữ Kim Vân Kiều tân chuyện của Edmond Nordemann in vào năm 1897, nhưng không thấy chú giải gì. Bùi Khánh Diễn trong Kim Vân Kiều chú thích in năm 1923, đã chú thích: “Vắt nóc: tục ngữ có nói ngồi vắt nóc”; Hồ Đắc Hàm trong Kiều Truyện dẫn giải Đắc Lập in 1929 có lẽ là người chú giải sớm nhất về VẮT NÓC: “Vắt nóc: lên ngồi trên cao vắt chéo chân này qua chân kia; ngồi vắt mảy”; trong Việt Nam tự điển do Hội Khai Trí Tiến Đức khởi thảo in năm 1931 đã giải nghĩa: “Vắt nóc: Nhảy tọt lên cao mà ngồi”, ý nghĩa này không xác nhận tư thế ngồi vắt chéo chân lên nhau. Lê Văn Hòe trong Truyện Kiều chú giải in năm 1953 chú giải: “Vắt nóc: tiếng miền Trung, nghĩa là vắt chân nọ lên chân kia, nghĩa cũng gần như vắt vẻo”, Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, in năm 1974 chú giải: “Vắt nóc: Ngồi vắt vẻo ở chỗ cao nhất. Tả thái độ làm chủ của Tú Bà”, Đàm Duy Tạo, Truyện Kim Vân Kiều - Giảo đính & tường giải biên soạn năm 1976 chú thích: “Vắt nóc: là lên ngồi oai vệ ở một chỗ cao quý nhất để tỏ ra mặt bà chủ tôn trọng nhất trong nhà, trùm lợp cả mọi người như nóc nhà trùm lợp cả nhà vậy”, nghĩa lý này cũng không xác nhận tư thế ngồi vắt chéo chân lên nhau. Đáng chú ý là Nguyễn Trọng Thạt trong Túy Kiều truyện - Kim Vân Kiều - Dò thật kỹ theo bản Kinh và bản Bắc -in năm 1938 lại không đọc là “vắt nóc” nhưng là “vích đóc”, nhưng chúng tôi không tìm ra bản Kiều Nôm nào có hai chữ “vích đóc”! Theo Đại Nam Quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của in năm 1896, “vích đóc” là “vếch đốc” (= vếch mảy), cùng nghĩa là ngồi tréo mảy (ở Huế): ngồi co xếp, gác chân lên trên bắp vế. Làm mặt tự đắc, vênh vang. Gần đây, Truyện Kiều của Hội Kiều Học in năm 2015 đã chú giải: “Vắt nóc: ngồi vắt chéo chân ở chỗ cao nhất trên giường. Ý chỉ sự hống hách của Tú Bà”.

Nói chung đa số các nhà chú giải Truyện Kiều hiện đại đều suy diễn vắt nóc = vắt vẻo nghĩa là ngồi với chân này gác chéo lên chân kia, hoặc ngồi lên chỗ cao nhất một cách hống hách. Tuy nhiên, chưa một nhà nghiên cứu nào giảng giải một cách thỏa đáng và dẫn ra bằng chứng thuyết phục. Đáng lưu ý là, tư thế ngồi vắt chéo/vắt vẻo chân như thế chỉ có thể xảy ra khi người ta ngồi ở mép, cạnh ghế với một chân buông xuống đất, một chân gác chéo lên chân kia chứ không thể xảy ra ngay ở trên giường như ở câu Kiều: “Tú bà vắt nóc lên giường ngồi ngay”. Ở văn cảnh này, Nguyễn Du tả Tú Bà leo ngay lên giường ngồi với tư thế “vắt nóc” chứ không phải là Tú Bà ngồi ở cạnh mép ghế vắt chéo/vắt vẻo chân lên. Ở câu Kiều 1724: “Trên giường thất bảo ngồi lên một bà” cũng cho biết bà mẹ của Hoạn Thư ngồi lên trên cái giường, Nguyễn Du đã tả Mã Giám Sinh ngồi lên ghế ở câu 631: “Ghế trên ngồi tót sẵn sàng”, giường ghế thật khác nhau không thể lẫn lộn. Còn nếu hiểu theo “vắt nóc” là ngồi lên chỗ cao nhất một cách hống hách (không phải vắt vẻo, vắt chéo) lại không hợp lý, bởi vì Tú Bà đang ở trong chính nhà (lầu xanh) của mình, dĩ nhiên vị trí ngồi cao nhất trên giường phải là của bà chủ rồi, Nguyễn Du không việc gì phải nói đến cho thừa!


Ngày xưa, nhà khá giả, ở gian nhà chính (có bàn thờ gia tiên) thường kê (ở giữa hay hai bên trái phải) cái sập gụ hay cái phản gỗ có mặt phẳng rộng và bốn chân quỳ (cũng có thể là cái giường gỗ, trải chiếu) để tiếp khách, uống trà, đàm đạo, bày cỗ… Cả chủ nhà và khách đều ngồi lên trên cái sập, cái phản, cái giường đó để trò chuyện, ăn uống… Phụ nữ miền Bắc ngày xưa đúng là thường lên ngồi trên giường (sập gụ, phản gỗ) theo dáng điệu: một chân để nằm ngang sát mặt bằng, một chân co lên cao (hình 1).

Như vậy, theo chúng tôi, có thể hiểu ý nghĩa hai chữ VẮTNÓC của Nguyễn Du như sau: Thúy Kiều sau khi “Lễ xong hương hỏa gia đường, c.949”, Tú Bà ngay tức khắc leo lên trên giường ngồi với tư thế một chân để nằm ngang, một chân co lên cao, vươn cao như một hình chóp (đỉnh nóc) hay như cái nóc nhà. Cái “giường” mà Nguyễn Du nói đến không phải là loại ghế hay trường kỷ nhưng chính là giường (sập, phản) nói trên. Chúng tôi đã tìm thấy bức tranh minh họa sách Kim Vân Kiều tân truyện do họa sĩ Việt Nam vẽ, có thể vào hàng xưa nhất (bản Kiều Nôm chép tay, minh họa này hiện lưu trữ tại thư viện Anh quốc không rõ tên người biên soạn cũng như niên đại nhưng gáy sách có ghi năm 1894) đã mô tả Tú Bà ngồi với tư thế VẮT NÓC trên giường (xem hình 2). Rõ ràng, qua tranh vẽ này, ngày xưa ngồi VẮT NÓC chính là ngồi theo tư thế một chân để nằm ngang và một chân co lên cao.

Hai chữ VẮT NÓC 蓐/勿 ở câu 950 trong Truyện Kiều: “Tú bà vắt nóc lên giường ngồi ngay” từ đó đến nay vẫn chưa được các nhà nghiên cứu Truyện Kiều chú giải đúng đắn, thuyết phục. Nay, chúng tôi đã tìm hiểu kỹ lại thì thấy rằng, thực ra VẮT NÓC không phải ngồi trên ghế vắt vẻo theo kiểu chân này vắt chéo qua chân kia nhưng là một kiểu ngồi thông thường của phụ nữ ngày xưa. Kiểu ngồi VẮT NÓC này chỉ thực hiện khi ngồi lên trên giường, sập, phản với một chân để nằm ngang sát mặt phẳng và một chân để co lên cao, bàn chân hơi đưa ra phía trước, hình dáng trông như cái chóp (đỉnh nóc) hay như cái nóc nhà.

Đ.V.T
(TCSH423/05-2024)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • CAO HUY THUẦNToàn cầu hóa đang là một xu thế, một hiện tượng rộng lớn bao trùm khắp thế giới, không chỉ về kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa và đời sống. Toàn cầu hóa và chống toàn cầu hóa đã trở thành vấn đề thời sự của thế giới. Trong bối cảnh đó, yêu cầu gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một đòi hỏi cấp thiết, có tính sống còn của mỗi dân tộc khi phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa.Sông Hương xin giới thiệu một phần bài viết của Cao Huy Thuần như một góc nhìn thú vị về những vấn đề gai góc của thời đại.

  • NGUYỄN VĂN DÂN(*)LTS: Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ 2 của Hội Nhà văn Việt Nam diễn ra 2 ngày 4 và 5 tháng 10 năm 2006 đã khép lại nhưng âm vang của nó vẫn còn “đồng hiện” theo 2 cực... buồn vui, cao thấp. Song, dù sao nó cũng đã phản ánh đúng thực trạng, đúng “nội tình” của đời sống văn học nước nhà.

  • PHẠM PHÚ PHONGMấy chục năm qua, người đọc biết ông qua những kịch bản thơ, những bài thơ viết về tình bạn, tình yêu; về những cuộc chia tay lên đường ra trận; về đất và người Hà Nội đầy khí thế hoành tráng của tâm thế sử thi; nhưng cũng có khi bí hiểm, mang tâm trạng thế sự buồn cháy lòng của một người sống âm thầm, đơn độc, ít được người khác hiểu mình.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Tư- duy tự- do của Phan Huy Đường*)

  • TRẦN HOÀI ANHBáo Văn nghệ trong lời giới thiệu những bài thơ mới nhất của Nguyễn Khoa Điềm số ngày 5/8/2006 cho biết: “Bây giờ ông đã trở về ngôi nhà của cha mẹ ông ở Huế. Tôi chưa bao giờ đến ngôi nhà ấy”. Còn tôi, người viết bài này đã có “cơ may” ở trọ tại ngôi nhà yên bình ấy trong những năm tám mươi của thế kỉ trước khi tôi đang là sinh viên ngữ văn Đại học Sư phạm Huế.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆN(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Lan Khai (1906-2006)Đầu năm 1939, Vũ Đình Long, chủ Nhà xuất bản Tân Dân có sáng kiến xin giấy phép xuất bản ấn hành tạp chí TAO ĐÀN. Đây là tạp chí chuyên ngành về văn học đầu tiên trong làng báo ở ta trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.

  • NGUYỄN TÀI CẨN, PHAN ANH DŨNG1/ Tiến sĩ Đào Thái Tôn vừa cho xuất bản cuốn “Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều: bản Liễu Văn Đường 1871”. Chúng tôi thành thực hoan nghênh: hoan nghênh không phải vì trong cuốn sách đó có những chỗ chúng tôi được Tiến sĩ tỏ lời tán đồng, mà ngược lại, chính là vì có rất nhiều chỗ Tiến sĩ tranh luận, bác bỏ ý kiến của chúng tôi.

  • TÔN PHƯƠNG LAN1. Phong Lê là người ham làm việc, làm việc rất cần cù. Anh là người suốt ngày dường như chỉ biết có làm việc, lấy công việc làm niềm vui cho bản thân và gia đình. Anh sống ngăn nắp, nghiêm túc trong công việc nhưng là người ăn uống giản đơn, sinh hoạt tùng tiệm.

  • THỤY KHUÊLGT: “Thụy Khuê là một nhà phê bình văn học Việt Nam sắc sảo ở Pháp” (Trần Đình Sử, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXBGD Hà Nội, 2005) Bà đã viết về mục tác giả Bùi Giáng và một số tác giả miền Nam trước 1975 cho “Tự điển văn học” bộ mới. Bài viết về Thanh Tâm Tuyền cũng dành cho bộ Từ điển nói trên. Chúng tôi đăng bài viết này để tưởng nhớ nhà thơ Thanh Tâm Tuyền vừa mới qua đời.

  • HỒ THẾ HÀĐồng cảm và sáng tạo (*): Tập phê bình-tiểu luận văn học mới nhất của nhà phê bình nữ Lý Hoài Thu. Tập sách gồm 30 bài viết (chủ yếu là phê bình-tiểu luận và 5 bài trao đổi, phỏng vấn, trả lời phỏng vấn), tập trung vào mảng văn học hiện đại Việt Nam với sự bao quát rộng về đề tài, thể loại và những vấn đề liên quan đến phê bình, lý luận văn học, đời sống văn học từ 1991 đến nay.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHHôm Tết vừa rồi, anh Đỗ Lai Thúy ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng và có tặng tôi một tập sách. Nội dung, anh đã phác thảo chân dung học thuật của 17 nhà nghiên cứu. Công trình thật là công phu, khoa học, nhiều thao tác tư duy, nhiều tầng bậc chiêm nghiệm... hàm tàng một sở học nghiêm túc, đa diện và phong phú.

  • TRÚC THÔNGLTS: Cuộc hội thảo Thơ Huế trong mạch nguồn thơ Việt do Hội Nhà văn TT Huế tổ chức nhân dịp Festival Thơ Huế 2006 đã “truy cập” được nhiều nhà thơ, nhà lý luận- phê bình tham dự.Tiếp theo số tháng 6, trong số tháng 7 này, Sông Hương xin trích đăng thêm một số tham luận và ý kiến về cuộc hội thảo nói trên.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrước hết tôi muốn phân định một khái niệm thơ Huế, ít nhất là trong bài viết này của tôi. Thơ Huế là một khái niệm tưởng cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thế nào là thơ Huế? Có phải đó là thơ viết về Huế và thơ của người Huế viết. Mặc nhiên mọi người đều hiểu thế. Thơ viết về Huế thì có của người gốc Huế, người đang sống ở Huế và người ở khắp mọi nơi.

  • INRASARATham luận Festival Thơ Huế lần 2 tại Huế 05 và 06/6/2006Tràn lan cái giống thơ:Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để...tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động mươi năm qua là có thật. Không thể, và cũng không nên chê trách hiện tượng này. Thử tìm nguyên do.

  • TÂM VĂNĐã hơn hai thế kỷ rồi mà nay đọc bài “Lập học chiếu” (Chiếu chỉ thành lập trường học) của Ngô Thời Nhậm vẫn nóng lên như những dòng thời sự.

  • HỒ THẾ HÀVới điểm nhìn ngược chiều từ khởi đầu thế kỷ XXI (2006) hướng về cội nguồn khai sinh vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân - Huế (1306), chúng ta thấy vùng đất này đã có 700 lịch sử thăng trầm, vinh quang và bi tráng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGVô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo.

  • VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Có thể nói yêu cầu đổi mới của các thể loại văn học là một yêu cầu tất yếu trong đời sống văn học. Tính tất yếu nầy luôn đặt cho văn học một hành trình cách mạng. Cách mạng trong đời sống văn học và cách mạng trong bản thân từng thể loại văn học.