ĐINH VĂN TUẤN
Tranh vẽ Kiều của nữ họa sĩ Ngọc Mai - Ảnh: tư liệu
Trong Truyện Kiều, ở câu 950: “Tú bà vắt nóc lên giường ngồi ngay”, hai chữ VẮT NÓC được viết là 蓐xuất hiện sớm nhất ở bản Nôm Đoạn trường tân thanh do Nguyễn Hữu Lập chép tay năm 1870, bản Kim Vân Kiều tân truyện do Liễu Văn Đường khắc in năm 1871 và Kim Vân Kiều tân truyện do Duy Minh Thị khắc in năm 1872 khắc là 勿
; đa số các bản Truyện Kiều chữ Nôm sau đó đều khắc, viết như các bản trên. Có lẽ chính vì VẮT NÓC là một từ tối nghĩa nên đến bản Đoạn trường tân thanh do Kiều Oánh Mậu khắc in năm 1902, đã khắc là vắt vẻo
㧼, Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim cũng nhắc đến bản này nên trong Truyện Thúy Kiều đã ghi chú: “có bản chép là vắt vẻo” (Tản Đà trong Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện, in năm 1941 cũng không đồng ý chữ “vắt nóc” nên sửa là “vắt vẻo” (chắc là theo bản Kiều Oánh Mậu) và Chiêm Vân Thị trong Thúy Kiều truyện tường chú đã viết là vắt chéo
.
Xưa nay, các nhà chú giải Truyện Kiều vẫn tỏ ra lúng túng, mơ hồ khi chú giải, giảng nghĩa về hai chữ VẮT NÓC. Trong bản Quốc ngữ Kim Vân Kiều truyện in năm 1875, Trương Vĩnh Ký đã không cho chữ 蓐 là chữ Nôm nên đã hiểu đó là chữ Hán, nhục 蓐 nghĩa là cái nệm để đọc là “vắt nhục” chứ không đọc là “vắt nóc” và ông đã chú giải: “Nhục: - Mã nhục - Nệm. - Xách cái nệm bả trải mà khẩn đem lên giường lót mà ngồi” nhưng rõ ràng nghĩa lý này không phù hợp với văn cảnh (sau đến Abel des Michels trong bản Quốc ngữ Kim Vân Kiều tân truyện in năm 1898 cũng đọc là vắt nhục). Âm đọc VẮT NÓC lần đầu tiên xuất hiện trong bản Quốc ngữ Kim Vân Kiều tân chuyện của Edmond Nordemann in vào năm 1897, nhưng không thấy chú giải gì. Bùi Khánh Diễn trong Kim Vân Kiều chú thích in năm 1923, đã chú thích: “Vắt nóc: tục ngữ có nói ngồi vắt nóc”; Hồ Đắc Hàm trong Kiều Truyện dẫn giải Đắc Lập in 1929 có lẽ là người chú giải sớm nhất về VẮT NÓC: “Vắt nóc: lên ngồi trên cao vắt chéo chân này qua chân kia; ngồi vắt mảy”; trong Việt Nam tự điển do Hội Khai Trí Tiến Đức khởi thảo in năm 1931 đã giải nghĩa: “Vắt nóc: Nhảy tọt lên cao mà ngồi”, ý nghĩa này không xác nhận tư thế ngồi vắt chéo chân lên nhau. Lê Văn Hòe trong Truyện Kiều chú giải in năm 1953 chú giải: “Vắt nóc: tiếng miền Trung, nghĩa là vắt chân nọ lên chân kia, nghĩa cũng gần như vắt vẻo”, Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều, in năm 1974 chú giải: “Vắt nóc: Ngồi vắt vẻo ở chỗ cao nhất. Tả thái độ làm chủ của Tú Bà”, Đàm Duy Tạo, Truyện Kim Vân Kiều - Giảo đính & tường giải biên soạn năm 1976 chú thích: “Vắt nóc: là lên ngồi oai vệ ở một chỗ cao quý nhất để tỏ ra mặt bà chủ tôn trọng nhất trong nhà, trùm lợp cả mọi người như nóc nhà trùm lợp cả nhà vậy”, nghĩa lý này cũng không xác nhận tư thế ngồi vắt chéo chân lên nhau. Đáng chú ý là Nguyễn Trọng Thạt trong Túy Kiều truyện - Kim Vân Kiều - Dò thật kỹ theo bản Kinh và bản Bắc -in năm 1938 lại không đọc là “vắt nóc” nhưng là “vích đóc”, nhưng chúng tôi không tìm ra bản Kiều Nôm nào có hai chữ “vích đóc”! Theo Đại Nam Quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của in năm 1896, “vích đóc” là “vếch đốc” (= vếch mảy), cùng nghĩa là ngồi tréo mảy (ở Huế): ngồi co xếp, gác chân lên trên bắp vế. Làm mặt tự đắc, vênh vang. Gần đây, Truyện Kiều của Hội Kiều Học in năm 2015 đã chú giải: “Vắt nóc: ngồi vắt chéo chân ở chỗ cao nhất trên giường. Ý chỉ sự hống hách của Tú Bà”.
Nói chung đa số các nhà chú giải Truyện Kiều hiện đại đều suy diễn vắt nóc = vắt vẻo nghĩa là ngồi với chân này gác chéo lên chân kia, hoặc ngồi lên chỗ cao nhất một cách hống hách. Tuy nhiên, chưa một nhà nghiên cứu nào giảng giải một cách thỏa đáng và dẫn ra bằng chứng thuyết phục. Đáng lưu ý là, tư thế ngồi vắt chéo/vắt vẻo chân như thế chỉ có thể xảy ra khi người ta ngồi ở mép, cạnh ghế với một chân buông xuống đất, một chân gác chéo lên chân kia chứ không thể xảy ra ngay ở trên giường như ở câu Kiều: “Tú bà vắt nóc lên giường ngồi ngay”. Ở văn cảnh này, Nguyễn Du tả Tú Bà leo ngay lên giường ngồi với tư thế “vắt nóc” chứ không phải là Tú Bà ngồi ở cạnh mép ghế vắt chéo/vắt vẻo chân lên. Ở câu Kiều 1724: “Trên giường thất bảo ngồi lên một bà” cũng cho biết bà mẹ của Hoạn Thư ngồi lên trên cái giường, Nguyễn Du đã tả Mã Giám Sinh ngồi lên ghế ở câu 631: “Ghế trên ngồi tót sẵn sàng”, giường và ghế thật khác nhau không thể lẫn lộn. Còn nếu hiểu theo “vắt nóc” là ngồi lên chỗ cao nhất một cách hống hách (không phải vắt vẻo, vắt chéo) lại không hợp lý, bởi vì Tú Bà đang ở trong chính nhà (lầu xanh) của mình, dĩ nhiên vị trí ngồi cao nhất trên giường phải là của bà chủ rồi, Nguyễn Du không việc gì phải nói đến cho thừa!
![]() |
![]() |
Ngày xưa, nhà khá giả, ở gian nhà chính (có bàn thờ gia tiên) thường kê (ở giữa hay hai bên trái phải) cái sập gụ hay cái phản gỗ có mặt phẳng rộng và bốn chân quỳ (cũng có thể là cái giường gỗ, trải chiếu) để tiếp khách, uống trà, đàm đạo, bày cỗ… Cả chủ nhà và khách đều ngồi lên trên cái sập, cái phản, cái giường đó để trò chuyện, ăn uống… Phụ nữ miền Bắc ngày xưa đúng là thường lên ngồi trên giường (sập gụ, phản gỗ) theo dáng điệu: một chân để nằm ngang sát mặt bằng, một chân co lên cao (hình 1).
Như vậy, theo chúng tôi, có thể hiểu ý nghĩa hai chữ VẮTNÓC của Nguyễn Du như sau: Thúy Kiều sau khi “Lễ xong hương hỏa gia đường, c.949”, Tú Bà ngay tức khắc leo lên trên giường ngồi với tư thế một chân để nằm ngang, một chân co lên cao, vươn cao như một hình chóp (đỉnh nóc) hay như cái nóc nhà. Cái “giường” mà Nguyễn Du nói đến không phải là loại ghế hay trường kỷ nhưng chính là giường (sập, phản) nói trên. Chúng tôi đã tìm thấy bức tranh minh họa sách Kim Vân Kiều tân truyện do họa sĩ Việt Nam vẽ, có thể vào hàng xưa nhất (bản Kiều Nôm chép tay, minh họa này hiện lưu trữ tại thư viện Anh quốc không rõ tên người biên soạn cũng như niên đại nhưng gáy sách có ghi năm 1894) đã mô tả Tú Bà ngồi với tư thế VẮT NÓC trên giường (xem hình 2). Rõ ràng, qua tranh vẽ này, ngày xưa ngồi VẮT NÓC chính là ngồi theo tư thế một chân để nằm ngang và một chân co lên cao.
Hai chữ VẮT NÓC 蓐/勿
ở câu 950 trong Truyện Kiều: “Tú bà vắt nóc lên giường ngồi ngay” từ đó đến nay vẫn chưa được các nhà nghiên cứu Truyện Kiều chú giải đúng đắn, thuyết phục. Nay, chúng tôi đã tìm hiểu kỹ lại thì thấy rằng, thực ra VẮT NÓC không phải ngồi trên ghế vắt vẻo theo kiểu chân này vắt chéo qua chân kia nhưng là một kiểu ngồi thông thường của phụ nữ ngày xưa. Kiểu ngồi VẮT NÓC này chỉ thực hiện khi ngồi lên trên giường, sập, phản với một chân để nằm ngang sát mặt phẳng và một chân để co lên cao, bàn chân hơi đưa ra phía trước, hình dáng trông như cái chóp (đỉnh nóc) hay như cái nóc nhà.
Đ.V.T
(TCSH423/05-2024)
ĐÀO DUY HIỆP “Hội làng mở giữa mùa thu Giời cao gió cả giăng như ban ngày” (Nguyễn Bính)
YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...
TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.
ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.
NHẬT CHUNG (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.
PHONG LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.
HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.
ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.
TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.
HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…
ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)
TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...
TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.
HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.
ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.
NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.
TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.
TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.
NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...