PHI TÂN
1.
Buổi chiều trên đường đi làm về thấy một chị phụ nữ bày bán những con heo đất bên vỉa hè màu xanh, đỏ, vàng, cam nhìn thật vui mắt.
Ảnh: Hồ Ngọc Anh Tuấn
Tôi dừng lại mua một con heo đất to, trông rất ngộ nghĩnh, nghĩ là mấy nhóc nhà tôi sẽ vui lắm khi tết đang về và đã có con heo đất mới để thay thế con heo đất cũ chuẩn bị được mổ ra. Chợt ùa về những niềm vui nho nhỏ của tuổi thơ trong tôi. Đúng là tuổi thơ nông thôn của tôi làm chi có mấy con heo đất mũm mĩm nhiều màu sắc đẹp như bây giờ. Nhưng hồi đó, để có tiền tiết kiệm cho tết, lũ con nít nhà quê chúng tôi cũng có một vật dụng để cất giữ tiền đó là những chiếc lùng binh.
Những chiếc lùng binh làm bằng một khúc tre nứa, được bịt kín hai đầu, khoét một lỗ nhỏ ở giữa đủ để nhét mấy đồng xu hay mấy tờ giấy bạc gấp nhỏ vô trong. Sau này, ở chợ quê tôi có thêm những chiếc lùng binh được làm từ những lon sữa bò bỏ đi được bịt kín lại đầu miệng bằng một miếng sắt, chừa lại một lỗ nhỏ để bỏ tiền vô. Chúng tôi gọi đó là những lon lùng binh... Bà nội vẫn thường mua cho anh em tôi một chiếc lon lùng binh như rứa trong những buổi chợ cuối năm. Suốt một năm, mấy anh em cũng dồn được chục đồng bạc và thật là vui. Chúng tôi gửi hết tiền cho bà nội để bà nội mua quà cho mỗi đứa; còn bao nhiêu bà để dành để lì xì cho mấy đứa cháu trong ngày đầu năm mới...
Những ngày Tết đến, tiền lì xì, tiền ăn từ trò chơi cua bầu được anh em chúng tôi lần lượt thả vô chiếc ống binh. Tôi vẫn còn nhớ đồng xu năm hào có một lỗ tròn ở giữa, đồng xu một đồng không có lỗ màu trắng bạc. Lũ trẻ xóm tôi vẫn thường chơi tán mạng bằng những đồng xu này và ai chơi hay thì có khi thắng đến mấy đồng. Rồi khi có rủng rẻng tiền thì bỏ vô lùng binh. Cái lùng binh được anh em tôi cẩn thận gác trên cái băng trần nhà. Trong suốt năm, cứ có tiền dư là anh em chúng tôi cho vô lùng binh. Mà những đồng tiền đó cũng chủ yếu là tiền của ba mạ hay bà nội cho để ăn quà hay thỉnh thoảng chúng tôi nhặt nhôm nhựa, mót lúa đi bán lấy tiền. Cứ đến độ cuối năm thì chiếc lùng binh lon sữa bò cầm lên lúc lắc không kêu nữa.
Rồi tối Ba mươi Tết, anh em chúng tôi chờ đợi đến giờ phút để đục lùng binh. Chiếc nắp đậy lon lùng binh được chúng tôi lấy con dao bẩy ra. Những đồng tiền kẽm quay tròn leng keng trên tấm phản trong ánh mắt sáng rực niềm vui của cả mấy anh em tôi. Thực tình thì từ lùng binh toàn là tiền lẻ nên cũng chẳng nhiều nhặn chi nhưng vì là tiền tiết kiệm được nên vui lắm. Bây giờ, mấy đứa con gái của tôi cũng thích được nuôi heo đất để tiết kiệm từ quà ăn vặt. Chỉ có điều, không như xưa, khi còn những đồng tiền xu bằng kẽm nên chú heo đất thiếu đi âm thanh lắc cắc thiệt vui tai như những chiếc lùng binh bằng lon sữa bò mấy lối của tuổi thơ...
2.
Vụ mùa mô cũng rứa cả, ba tôi cũng chọn miếng ruộng gần nhà để cấy nếp. Có năm cấy giống nếp Ba trăng, có năm cấy giống nếp Trứng; cũng có năm cấy giống nếp Đà. Khi đã gặt xong hết mấy sào lúa, ba mới cho gặt nếp. Sân phơi trước nhà phải dọn dẹp sạch sẽ tránh cho mấy hột lúa vương vãi lộn vô nếp sau này nấu xôi sẽ mất ngon.
Xong vụ mùa, mạ đi xay một thúng nếp để nấu xôi cho cả nhà thưởng thức hương vị mùa nếp mới. Số nếp còn lại ba cho vô hai cái lu to bằng sành để dành cho Tết. Đầu tháng Chạp, mạ đổ nếp trong lu ra đi xay để chuẩn bị làm bánh. Cái náo nức về mùa Tết con trẻ của anh em nhà tôi có lẽ đã đến từ khi mạ gánh hai thúng gạo nếp trắng như màu sữa về nhà. Nếp được dùng làm các loại bánh để cúng cấp và dọn khách trong ba ngày Tết vì nó dẻo và thơm. Nhưng để xay được bột nếp là cả một công đoạn khó khăn. Tôi nhớ nhà bác Toàn hàng xóm nhà tôi có cái cối xay bột nếp nhỏ bằng đá. Nếp dầm nước qua một đêm cho thật mềm nhừ, rồi bỏ vào cối xay từng nhúm nhỏ, dùng tay quay cối mà xay suốt cả ngày, rồi lọc, rồi phơi, rồi hấp cho bột chín... Sau này ở làng dưới có một cái máy xay bột hiện đại. Nếp chỉ cần rang cho chín rồi mang đi xay là bột có thể làm bánh được. Nhưng cứ đến đầu tháng Chạp nhà mô cũng chuẩn bị bột nếp cho ngày Tết nên ai cũng phải xếp hàng chờ đến lượt mình ở cái máy xay bột này…
Nhớ hương vị nếp là nhớ về cái không khí của Tết xưa với sự chắt chiu của người quê để lo cho cái Tết được đủ đầy, tươm tất. Nếp ruộng quê, đậu xanh vườn, heo cỏ nhà, có thêm vài chục trứng gà nữa để đổ bánh thuẫn… Không biết răng là đủ, cũng không biết răng là thiếu cho một cái Tết. Nhưng cái hương vị Tết cũ nó thấm đẫm từ cái tất bật, cái hương, cái vị và cả cái tĩnh nữa là vì người quê đã khéo léo làm thăng hoa hương vị của đất đai, cây cỏ quê nhà lên mâm cỗ, bánh trái trong ba ngày Tết. Cũng vì thế chăng mà ai đi xa cũng muốn về quê để được thưởng thức những món bánh trái chỉ riêng có của quê mình.
Có năm, nhà đứa bạn hàng xóm đưa ở đâu đó về trồng một loài cây lạ, lá hơi giống cây bình tinh nhưng lá to và dày hơn. Nó nói lá này là lá dong để nấu bánh chưng ngày tết. Rứa là cả mấy thằng trong xóm cười to nói bánh chưng thì gói bằng lá chuối thôi làm chi có chuyện gói bằng lá dong mà mi nói tầm bậy tầm bạ rứa. Rứa rồi đến giáp Tết, thằng bạn tôi đi kêu mấy thằng trong xóm thiển cận lên xem nhà hắn gói bánh chưng bằng lá dong. Thì ra có một loại lá dong gói bánh chưng mà không phải là lá chuối thật. Ba của thằng bạn bỏ hai miếng lá dong chồng lên nhau vuông góc trong cái khuôn bằng tre và gói bánh. Chiếc bánh chưng gói bằng lá dong xem ra còn đẹp hơn cả bánh chưng gói bằng lá chuối bởi lá dong xanh hơn, dày hơn. Ngày mồng một Tết, tôi mặc bộ đồ mới lên nhà thằng bạn chơi đã thấy mấy cái bánh chưng gói bằng lá dong đặt trên bàn sau khi cúng giao thừa xong. Những chiếc bánh chưng gói bằng lá dong đẹp quá, nhất là cái màu xanh đậm và cả những đường vân của lá.
Cùng lúc đó mẹ thằng bạn mời khách đến chơi ăn món giò nấu đông, một đặc sản Tết của quê bà ở tận ngoài Bắc. Bà thím thằng bạn lắc đầu nói: “Chao ơi bác nấu cái món chi mà thấy cả mợ (mỡ) khôn rứa, thấy ớn ang rứa ăn răng chù (cho) được bác hè!” Nói thì nói rứa nhưng bà thím cũng nể lời chị dâu ngày đầu năm mà thưởng thức món giò nấu đông. Ăn xong một tô bà thím xuýt xoa: “Té ra nhìn thì rứa mà kỳ (cái) món ni hắn khôn ớn chi hết tề, ngon quá!” Tôi cũng được mẹ của bạn mời ăn món đông nhưng từ chối chỉ vì đã lỡ ăn một cái bánh chưng gói lá dong và còn mê mấy thứ bánh ngọt khác nữa.
3.
Nhớ một chiều cuối năm, trên chuyến đò dọc từ Huế về quê ăn Tết, ngồi cạnh tôi là một người đàn ông chừng trên dưới lục tuần. Đò vừa nổ máy rời bến Đông Ba, tôi bắt chuyện làm quen với ông: “Bác về mô, làng Kế Môn hay làng Đại Lược?” “Tui về Đại Lược, cũng là quê của tui đó!” Sau câu nói này, ông bỗng trở nên gần gũi với tôi và câu chuyện giữa tôi với người đồng hương mới quen đã bắt đầu rồi say sưa dần khi đò rời bến...
Quê ông cũng là quê tôi, làng Đại Lược bên sông Ô Lâu. Nhưng ông đã cùng gia đình rời làng vô miền Nam sinh sống từ cuối năm 1960 khi mà tôi còn chưa ra đời. Xa quê từ nhỏ, nên giọng nói của ông gần như là giọng Nam Bộ, chỉ sót lại đôi ba từ là của miền Trung. Chiến tranh bom rơi đạn lạc với bao mất mát; rồi hòa bình và những cuộc mưu sinh cơm áo nhọc nhằn đã làm cho gia đình ông ngày càng xa dần, xa dần cố hương cả về mặt địa lý và tình cảm. Cũng may là những cái Tết ấu thơ yên ả vui vầy vẫn còn ngưng đọng trong ký ức của ông dù thời gian đã qua mấy chục năm qua rồi... Ông kể: “Hồi đó là bom đạn liên miên, xóm làng tiêu điều, xơ xác lắm! Người làng thì ly tán đây đó khắp nơi; nên những ngày Tết cổ truyền khi mô cũng đặc biệt cả. Đó là thời gian và không gian để những người xa quê trở về nhà hướng về tổ tiên, mồ mả. Tui vẫn còn nhớ tiếng pháo nổ đón giao thừa chen lẫn tiếng súng và ánh hỏa châu của mấy anh lính bắn lên trời chào năm mới. Là những ngày Tết bình yên không có tiếng súng giao tranh bên này bên kia và mọi người có thể thoải mái đi trên đường làng đon đả chào nhau, chúc nhau và đến từng nhà thăm nhau... Tui vẫn còn nhớ cái bánh in làm bằng bột củ bình tinh còn gọi là bột linh, bóc lớp giấy ra là phải đổ thẳng vô miệng ăn liền, ngọt và thơm lắm; chỉ có điều khi ăn thì không được nói, được cười chi cả, không thì sặc chết bà nội à! Tui nhớ quê mình có cái bánh bài, là thứ bánh làm bằng bột nếp trộn với đường đen; được đúc ra từ chiếc khuôn bằng gỗ hình chữ nhật to như lá bài tây, ăn một cái thôi là no cả ngày… Tui nhớ sáng mồng một Tết mô ba tui cũng dắt mấy anh em tui lên chùa lễ Phật rồi lên nhà thờ của dòng tộc thắp hương tổ tiên… Rồi tối mồng ba Tết có chương trình ca vũ nhạc của mấy anh chị trong làng. Tui nhớ mấy chị múa bài hát chi có câu: “Xuân đã đến rồi - Gieo rắc ngàn hồn hoa xuống đời - Vui trong bình minh - Muôn loài chim hát vang mọi nơi...” hay thiệt là hay, không thể nào quên được! Tui là người lạc quê từ nhỏ mà sao vẫn nhớ hoài ngày Tết cũ ở làng mình?...”.
Ông đúng là người lạc quê đang tìm được lối về trong chiều cuối năm se se gió lạnh. Trời ngả sang chiều. Con đò chạy chầm chậm trên con phá Tam Giang kéo ông về với bao nhiêu kỷ niệm mà ông đã đánh rơi đâu đó qua bao tháng năm phiêu bạt trên đất khách quê người... Hai cụ thân sinh của ông quy tiên cũng đã mấy năm rồi. Ở quê cũ, ông cũng chỉ còn duy nhất một ông chú họ mà chừ cũng đã già lắm. Ông hỏi tôi về những cảnh cũ, người xưa của quê nhà Đại Lược. Cảnh cũ thì vẫn còn đó như cây vông đồng to đứng giữa làng, chiếc chuông chùa làng bị sứt một miếng vì dính một mảnh bom bay lạc trong một trận Tây càn hay ngôi chợ Đại Lược với những trò vui ngày Tết từ đánh bài Tới, chơi Bầu Cua Cá... Còn những người cũ mà ông từng quen biết khi ông còn bé ở làng, lúc đó tôi vẫn chưa ra đời nên tôi cũng chỉ biết lơ mơ một vài người qua lời kể của ba mạ mà thôi… Đò cập bến quê. Ông chậm rãi run run từng bước trên mạn đò rồi từ từ đặt chân xuống bến. Ông đứng thật lâu trên bến sông, mắt nhìn yêu thương về hướng làng. Đôi mắt của một người bôn ba, từng trải và lạc quê mấy chục năm thật lạ, nó chợt sáng long lanh như mắt trẻ thơ rồi cũng chợt u buồn thăm thẳm...
Chuyện đó cách đấy cũng đã gần hai chục năm rồi. Nhưng cứ mỗi lần về quê, đi ngang qua địa điểm bến đò năm cũ, tôi lại nhớ hình ảnh người đàn ông dạn dày sương gió, tóc đã bạc gần hết mái đầu, đứng trên bến sông chiều cuối năm mưa bụi mà mắt nhìn đăm đăm, thao thiết về phía làng…
P.T
(TCSH384/02-2021)
Chiều 15-4-89, 14 giờ. Phòng họp của Hội VHNT Bình Trị Thiên đã chật hết chỗ, nhiều người ngồi lên bậc cửa sổ.
HỒ VĨNH
Nhà báo Nguyễn Cửu Thạnh sinh ngày 15/6/1905 tại Phú Hội, thành phố Huế. Thuở thiếu thời ông là người ngay thẳng, vui tính, thích văn chương nghệ thuật; ông bước vào nghề báo từ năm 1929 và tham gia hoạt động tích cực trong phong trào Mặt trận Dân chủ tại Huế và hoạt động báo chí do Xứ ủy Trung kỳ chỉ đạo.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
Trong lịch sử xây dựng tổ chức văn nghệ trên đất Cố đô Huế 70 năm qua, nơi ghi dấu nhiều sự kiện, nhiều kỷ niệm nhất hẳn là ngôi nhà 26 Lê Lợi, bên bờ nam sông Hương.
Đó là đánh giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong điếu văn linh mục Phạm Bá Trực.
Từ Thượng thư Bộ Hình triều Nguyễn, cụ Bùi Bằng Đoàn đã vượt qua những định kiến của thời cuộc, của chế độ cũ - mới để tham gia chính quyền cách mạng.
HOÀNG VŨ THUẬT
Bút ký
Hồi ấy tôi cũng là ông giáo làng, sáng đi tối về. Chiến tranh như cái máy ủi đã san phẳng bất cứ thứ gì dựng lên trên mặt đất.
Văn Cao là một trong những nhạc sĩ thuộc lớp tiền bối của nền tân nhạc Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp của ông luôn gắn chặt và hoà trộn với dòng chảy lịch sử của dân tộc. Nhiều tác phẩm của ông đã trở thành di sản âm nhạc quý báu của nước nhà. Trong đó, có tác phẩm Tiến quân ca - Quốc ca Việt Nam – mà ông là tác giả.
PHAN QUANG
Hồi ký
Vua Hàm Nghi ghé làng tôi. Vua nghỉ lại ở nhà tôi. Điều đó xảy ra một trăm năm về trước. Và nhà ấy là nhà của ông nội tôi.
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Ngân Giang viết như một dòng sông tuôn chảy điều hòa. Bà là một hiện tượng trên thi đàn Việt Nam: người làm thơ liên tục dài năm nhất (từ 1922 tới khi bà qua đời- 2002), có số lượng thơ thuộc loại nhiều nhất (hơn 5.000 bài) có nhiều bài được truyền tụng (như Trưng nữ vương, Xuân chiến địa...)
KỶ NIỆM 68 NĂM NGÀY THƯƠNG BINH LIỆT SĨ (27/7/1949 - 2015)
PHẠM HỮU THU
Trước khi ông Lê Sáu, nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế qua đời, tôi may mắn được ông kể cho nghe nhiều chuyện, phần lớn là những ân tình mà đồng bào, đồng chí đã dành cho cách mạng trong những năm ác liệt của chiến tranh, nhất là những tấm gương lặng lẽ hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
PHAN NAM SINH
Thầy tôi mất trưa hôm 16/1/1959 tại số nhà 73 phố Thuốc Bắc - Hà Nội. Sau khi cùng các anh chị tôi lo xong đám tang cho ông, mẹ tôi thu dọn tất cả số sách báo, sổ tay ghi chép, di cảo... của ông để lại vào trong hai chiếc va li loại lớn được ông mang về từ lần đi Trung Quốc dự lễ tưởng niệm 20 năm ngày mất của Lỗ Tấn.
Nhiều người Huế ngày trước thuờng ngâm nga câu hát: “ Cô gái nữ sinh Đồng Khánh kia ơi/ Cô đi về đâu tan buổi học rồi?/ Cô xuôi Đập Đá hay về Nam Giao/ Cô về Bến Ngự hay về Đông Ba / Cô về Vĩ Dạ hay ngược Kim Luông/… Tôi mơ một bóng khi về đơn côi/ Áo dài dáng đẹp tóc còn buông lơi/ Ghi một kỷ niệm cuộc đời trong tôi”.
BÙI KIM CHI
Vào Thành nội, hai con đường nhỏ hai bên hông trường trung học Hàm Nghi có lá phượng bay, có vòm nhãn che đường làm nền cho ngôi trường uy nghi, bề thế nằm ở giữa. Trước cổng trường có con đường nhỏ chạy ngang qua với hai hàng mù u lấp lánh nắng vàng tươi chụm đầu vào nhau nghe và thủ thỉ chuyện học trò.
THÁI KIM LAN
Từ xa nhận được hung tin Thầy nhập viện trong tình trạng nguy cập, tôi nôn nóng muốn về, hi vọng được gặp lại Thầy.
HƯỚNG ĐẾN KỶ NIỆM 70 NĂM HỘI VHNT THỪA THIÊN HUẾ
LÊ TRỌNG SÂM
90 NĂM BÁO CHÍ CÁCH MẠNG VIỆT NAM(21/6/1925 - 2015)
THANH NGỌC
Sự hình thành và phát triển của Hội Văn học Nghệ thuật (VHNT) Thừa Thiên Huế kể từ khi ra đời đến nay đã gắn bó rất chặt với đời sống báo chí. Điều đó cũng dễ hiểu, bởi những mầm xanh của VHNT rất cần được gieo trồng trên cánh đồng báo chí. Điều khác nữa, Huế - vùng đất từng là “thủ đô văn hóa” của cả nước, nơi báo chí phát triển cực thịnh mấy chục năm từ trước 1945 đến 1975, các nhà văn hoạt động mạnh mẽ trên lĩnh vực báo chí là lẽ đương nhiên.
Nhân kỷ niệm 125 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, tối 19/5 kênh VTV1 đã trình chiếu bộ phim tài liệu: Hồ Chí Minh - Bài ca Tự do. Có thể khẳng định: đây là một trong những bộ phim tài liệu đặc sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh mà tôi đã từng được xem.
NSND Trà Giang chia sẻ ký ức và cảm xúc về bức ảnh được chụp cùng Bác Hồ năm 1962.
Tháng 3-4/1975 Phó Cục trưởng Cục Quân nhu Từ Giấy và con trai Từ Đễ cùng hướng tới Sài Gòn bằng con đường khác nhau: người cha đi theo đường mòn Hồ Chí Minh, người con đi bằng máy bay.