NGUYỄN KHẮC THẠCH
Trên bàn tay Phật pháp vô biên hẳn còn nhiều hướng đi khác tích cực hơn và Tạ Thị Ngọc Thảo đã chọn phương pháp Vòng Thời Gian (hay Đạo pháp Calachakra) trong Mật giáo.
Tạ Thị Ngọc Thảo bên hoa sen - Ảnh: tuanvietnam
Đó là phương pháp độc chiêu mà sau khi thành Đạo, Đức Phật đã chỉ giáo cho một vị vua muốn tu đến chính quả nhưng không bỏ được bổn phận chăn dắt thần dân và đời sống vương giả của mình. Phép tu này giống Thiền tông ở mặt yếu lĩnh trực chỉ nhân tâm, còn mặt hình tướng bên ngoài được viên dung theo hướng chuyển hóa năng lượng qua sự đánh thức các quan năng phàm tục tương tác trong vòng ái dục mà không bị ràng buộc vào đó. Cũng có nghĩa cái biết và cái được biết ở đây được đồng hóa trong một cái tên gọi chung là buông bỏ. Có một chuyện thiền rất ý vị về việc buông bỏ này. Hai tăng đồ hành cước trên đường gặp một cô gái đang loay hoay tìm cách qua vũng nước. Biết ý, một vị ghé vai cõng cô ta qua đó. Còn vị tăng kia tỏ ra bất bình và hậm hực mãi đến khi về tới nhà thì trách đạo hữu “Người xuất gia sao lại còn cõng gái?”. “Ta cõng nhưng ta đã bỏ lại bên vũng nước ấy rồi, ngươi không cõng sao ngươi lại mang cô gái về đây?”. Vậy đấy, bỏ ra hay mang vào cũng đều ở tại tâm. Ngọc Thảo uyên thúy về lẽ đời chuyện đạo nên mọi ứng xử của chị đều minh xác và tinh tế. Chị từng đi nhiều nơi đây đó và rồi cũng đã đến Huế. Chị đến Huế không biết vì sự dẫn động của nghiệp hay duyên mà tâm luôn tưởng đến những việc an sinh trên nẻo đường phật sự? Từ việc đầu tư bệnh viện từ thiện, sửa sang chùa chiền đến những cuộc pháp thoại, pháp đàm... chị đều tác thành trong niềm hoan hỉ an nhiên. Những gì chị làm cho Huế đều có dấu ấn riêng không phải ở mặt lượng mà ở mặt chất. Tất nhiên nếu chỉ nói về mặt lượng không thôi cũng chưa thấy ai hào phóng một lúc chi hàng triệu đô như chị, kể cả các hào phú bản địa và các đại gia Huế kiều xa xứ. Song trong thực trạng của vấn đề, những công trình ở thì hoàn thành sẽ không sánh được với một tác phẩm đang ở thì tiếp diễn. Đó là Tịnh cư Cát Tường Quân được kiến tạo như một tác phẩm văn hóa nghệ thuật kì bí trên đồi Thiên An danh thắng. Đây là nơi lưu khách đặc thù dành cho những khát vọng tâm linh đi tìm giới hạn của mình trên những bước phản hồi văn hóa của nhân loại. Bởi vậy, khách tới đây trước hết và chủ yếu sẽ là những thiện tri thức hay những mặc khách tao nhân hoặc cũng có thể cả những tha nhân nợ duyên kì ngộ. Họ sẽ thông dự các hoạt động thân thiện với môi trường như ăn chay, trồng rau, quét rác, đọc sách và thực hành các dạo khúc mang tính thiền động trước khi vào buổi tọa thiền. Dù không phải là một thiền uyển hoặc thiền viện nhưng nó cũng mang năng lượng ám thị bởi quyền năng tư tưởng huân tập từ các không gian thiêng những linh căn gây hiệu ứng tỉnh thức và thức ngộ cho người có căn cơ. Hi vọng sau một kì lưu trú thụ hưởng niềm an lạc trong không gian Cát Tường Quân này, khi ra đi lữ khách sẽ “dính mắc” được một điều gì đó có ý nghĩa mở đầu. Đây là một công trình bổ sung làm giàu di sản văn hóa nhân loại trên đất Huế không chỉ về phần xác (vật thể) mà cả phần hồn (phi vật thể). Có thể nói Tịnh cư Cát Tường Quân là hình ảnh phóng chiếu bản thể và tâm sự của “thí chủ” Tạ Thị Ngọc Thảo. Mặc dù con người có tiến hóa nhưng không phải từ con vật lên mà là tiến hóa trong cái khung giống loài của nó. Từ sinh lí đến tâm lí rồi từ tâm lí đến tâm linh là những trạng thái đẳng cấp của con người. Cấp độ sinh lí ngã về loài vật, cấp độ tâm lí là thuộc tính con người, cấp độ tâm linh nghiêng về thần thánh. Tùy căn cơ và ngộ tính của từng chủ thể, ai tương hợp với cấp độ nào thì họ sẽ chan hòa với cấp độ đó. Còn ai thấy được chỗ huyền vi hằng hữu của sự sinh tồn thì người đó đã là một vị thần. Bằng thói quen tri thức thường tục và lối tư duy lượng đoán, người đời cho rằng mọi hiện tượng sự vật trong cuộc sống đều biến hiện một cách ngẫu nhiên và tự nhiên. Thế nhưng trong bản chất sâu xa của nó lại khác, tất cả phải tuân theo lộ trình logic biện chứng nghiệp lực. Những gì ở mỗi người đang có đang hưởng tại đời này là cái nhân gieo từ kiếp trước và những gì mà họ đang làm đang nghĩ ở đời này chính là cái quả của kiếp sau.
*
Cái mốc vào đời là những bước đi ngơ ngác khi vừa ra khỏi cửa Cô nhi viện Sài Gòn, bỏ lại phía sau một khung trời bàng bạc dấu ấn tuổi thơ bất hạnh. Dáng vóc mảnh mai đến mong manh với hai bàn tay trắng và một trái tim thương tổn bẩm sinh cùng cái đầu “rỗng” là thị thực bẻ bàng cho một cảnh ngộ mang mặc cảm tự ti đi mặc cả việc làm giữa chốn đô thị phù hoa.
Đó là tất cả những gì như được mặc định sẵn trên bề mặt hành trình vạn sự khởi đầu nan dành cho người tố nữ mang tục danh Út Thảo ngày ấy. Con người ta khi rơi vào bi cảnh, nhất là với phái nữ thì phần lớn họ chỉ biết chịu sự an bài, than thân trách phận nhưng cũng có người chiêu cảm được niệm chí cổ nhân thà thắp lên một ngọn nến nhỏ còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng đêm... Thế rồi qua biến dịch thăng trầm tương tục trong cõi người ta, với bản năng sinh tồn và bản sự tự tri, chị đã bấm bụng bước đi một cách minh bạch trong sự bỏ hờn để rồi ngoạn mục trưởng thành giữa cái xã hội phì nhiêu sắc tướng mà èo ọp nhân tâm. May mà đời còn dễ thương là lời đồng vọng từ đáy dòng chảy vô minh chợt le lói niềm lạc quan tịnh độ mà chị đã mục sở thị qua những tấn trò đời. Chưa lâu lắm, trên màn hình ti vi đã chiếu hình ảnh một bé tật nguyền trả lời phỏng vấn khi được hỏi về điều ước, em ấp ưởi nói chỉ mong làm những gì có ích để gi- úp người kém may mắn hơn mình. Chao ôi, một mảnh đời vốn rách như chiếc lá rách không cầu gì cho bản thân mà chỉ lo làm sao đùm bọc được những chiếc lá rách hơn! Tâm thức ấy, lòng bi mẫn ấy dường như là căn tính ở những kiếp tha nhân mưng lòng trắc ẩn hoặc ở những con người hiển minh phật tính. Út Thảo héo hon ngày xưa hay Tạ Thị Ngọc Thảo đĩnh đạc hôm nay thuộc tạng người vị tha, đa cảm và cao hạnh ấy.
Tiếng lành đồn xa là khí cụ của cơ chế hữu xạ tự nhiên hương cộng hưởng cùng hiệu ứng thông tin thế cuộc đã vẽ nên bức chân dung Tạ Thị Ngọc Thảo đa diện mà độc sáng. Đọc những bài báo của các tác giả khác chỉ thấy mặt “đa diện”, còn đọc những tác phẩm của chính chị viết thì mới thấy mặt “độc sáng”. Đa diện là từ góc nhìn những mảnh rời ghép lại, còn độc sáng là cái nhìn tại một điểm mà quán chiếu được toàn bộ những gì đang là.
![]() |
Chị Tạ Thị Ngọc Thảo nói chuyện với các ni ở Huế về kinh doanh trong phạm vi của chùa |
Bệnh nghề nghiệp khiến tôi xúc cảm muốn viết một cái gì đó về Tạ Thị Ngọc Thảo nhưng khi cầm bút lên rồi thì thấy nó trĩu nặng và không biết, nói đúng hơn là không dám viết gì hơn nữa. Xưa kia, Lý Bạch đứng trước Hoàng Hạc Lâu, cảnh đẹp khơi dậy trong ông niềm thi hứng nhưng khi thấy bài thơ bất hủ của Thôi Hiệu đề trên vách đã phải thốt lên: Cảnh đẹp trước mắt không tả được/ vì thơ Thôi Hiệu ở trên đầu (Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc/ Thôi Hiệu đề thi tại thượng lầu). Lý là vậy nhưng tình thì dù không viết được cũng không nỡ làm thinh. Tôi đã đọc đã nghe đâu đó rồi quyến niệm được đôi điều mang tính huyền sử từ những sinh mệnh từng trú xứ ở cảnh giới cao về thông dự kiếp người. Quan niệm đời người bắt đầu từ không và kết thúc cũng bằng không là cái nhìn biên kiến và áp đặt phân khúc sinh mệnh trong sự hiện hữu sắc uẩn. Trong không gian vật lí này, chẳng có sự hiện hữu nào cao hơn chủ thể của cái thấy sự hiện hữu đó. Tôi nghĩ Ngọc Thảo đã là người thấy mọi lẽ, cả những uẩn khúc và sự huyền vi qua trải nghiệm cuộc sống, qua lâm sự đời mình. Ở chị, có những câu chuyện có điểm kết thúc nhưng không có chỗ bắt đầu, lại có những câu chuyện có chỗ bắt đầu nhưng không có điểm kết thúc. Đời người nói chung về đặc tính giống loài vốn ngang ngửa nhau, sự sai khác chỉ xảy ra ở chỗ bắt đầu và kết thúc ấy. Từ điểm này, người ta có thể trở thành bằng hoặc thấp hơn hoặc cao hơn chính mình. Ngọc Thảo đã cao hơn chính mình qua sự nung nấu dấn thân trong thương trường để bước lên vị thế người trả lương chứ không phải người nhận lương như chị hằng tâm niệm. Chị đã kết thúc hai bàn tay trắng cùng cái đầu rỗng và những gì mang hệ lụy từ vô minh mà vô minh vốn không có điểm khởi đầu. Nói theo khẩu ngữ thời thượng thì chị đã trở thành một doanh nhân có “thương hiệu” trong hàng đại gia có máu mặt trên đất Việt. Khoảng 100 người giàu nhất nước ấy đã trồi lên giữa cơ chế mở trập trùng như sóng tụ tan tan tụ trên đường đi và đích đến với những giá trị mang ý nghĩa kết thúc hoặc mở đầu. Trong số họ, chị là người duy nhất không giống ai mà tôi biết chỗ khác ấy ở hai phương diện. Thứ nhất là trên đường đi, chị luôn dẫn lộ song hành sự tỉnh trí với niệm thức tâm. Tỉnh trí để mang lại hiệu quả cho hành động. Thức tâm để không làm hại người hại vật. Sự tỉnh trí ở chị còn là những triết lí kinh doanh, những luận giải đạo đời. Một nếp sống phong tục được an bài qua câu ngạn ngữ truyền thống Đói cho sạch rách cho thơm nghe quen tưởng chừng đó là bản sắc văn hóa dân tộc nhưng khi chị phản biện lại no mà sạch lành mà thơm vẫn hơn thì biểu tượng mặt trái của nó mới lộ ra. Sự nghèo đói thâm căn cố đế của người Việt ta có nguyên nhân sâu xa và tiêu cực nằm dài trong câu ngạn ngữ đó. Chỉ một phát hiện nho nhỏ và tinh tế ấy cũng đủ thấy tư chất và chiều kích một con người. Tiêu chí giải Nobel văn học thế giới có một điểm tương tự. Tác phẩm cần nêu được một vấn đề dù nhỏ và bình thường nhưng phải có tính phát hiện. Phát hiện về cái giản dị hằng diễn nằm đó mà không ai nhận ra. Lịch sử nhân loại cho hay bất cứ lĩnh vực hoạt động nào cũng phải có lí luận soi đường. Mỗi tôn giáo có sinh khí hay không đều phụ thuộc vào nền tảng học thuyết của nó. Cơ chế thị trường đẻ ra hàng loạt doanh nhân nhưng người có trí năng đột phá lí luận qua thực tiễn như chị quả là quá hiếm. Phương diện thứ hai là nơi đích đến. Đích đến của giới doanh nhân đều có thể qui chiếu vào một chữ có. Và khi sự có đã tới ngưỡng viên mãn thì họ càng “nô lệ” nó. Họ khư khư sự có, mở mang sự có, sang đoạt sự có bằng hào quang các loại nhãn mác, các loại danh hiệu. Với Ngọc Thảo thì ngược lại. Khi “đắc có” rồi chị lại hướng về cái không. Không tham luyến, không ràng buộc, không dính mắc, nghĩa là vô lậu. Chính nhờ đó, nhờ cái không vắng lặng trong tâm trí mà có chỗ chứa hay chỗ diệu hữu cho những phạm trù khác sinh sôi. Tại đây, chị mở ra một khởi đầu mới, khởi đầu không có điểm kết thúc. Đấy là suối nguồn minh triết thiêng liêng. Đấy là sự nhập lưu vào dòng chảy an nhiên của tâm thức cận ngộ. Cận ngộ là một cổng tri thức khác tri thức thường nghiệm, là bản lề kết nối bờ bên kia của Trí Huệ. Một cách nói khác thì đây là tri thức tâm linh ở cấp độ thấy chứ chưa phải ở cấp độ chứng. Dù vậy, cũng phải kinh qua đào luyện tâm linh một cách tinh tấn trong cuộc hành trình nội tại thì chị mới có được nó. Đó là cuộc hành trình cô khởi lột xác qua mọi kiết sử mọi triền cái trên con đường phản bổn qui chân. Là một phật tử trì giới tại gia nhưng chị lại đạt trình độ liễu nghĩa giáo lí tràn ra ngoài văn bản, đạt tới cực vô ngôn. Thấy được sự phù phiếm ở địa vị quí tộc thời thực dụng mà mình đã hoạch đắc giữa cuộc sống bon chen, giữa vạn hữu vô thường, chị liền buông bỏ nó với tâm thế nhẹ nhàng. Thực ra chị là một nhà quí tộc “kép”, khi cởi bỏ cái áo vật chất thì vẫn còn cái áo tinh thần. Di tính của quí tộc vật chất là sự hưởng thụ. Di tính của quí tộc tinh thần là sự cống hiến. Nhạc sĩ thiên tài Beethoven ý thức được điều này nên khi gặp sự kênh kiệu khinh khi của giới thượng lưu thời đó, ông đã chỉ thẳng vào mặt: hạng người như các ngươi thì nước Đức có nhiều còn Beethoven này chỉ có một! Khi biết sống là để cho thì người ta trở nên thanh sạch và cao thượng. Vào trạng thái này, lòng từ bi con người cũng được khai mở đến lượng siêu nhiên. Hạnh bố thí, cúng dường hay nói theo thời tính là làm từ thiện, lập công đức dường như ở chị cũng đã đi vào cảnh giới tâm vô nhiễm, mặc dầu vật và mọi quan hệ đối đãi vẫn còn nằm đó. Điều này khác với Bàng Uẩn cư sĩ trong điển giáo, khi được kiến tánh, ông đem hết của cải đổ xuống sông như một bước nhảy cuối cùng qua đoạn kiến chấp không.
![]() |
Chị Tạ Thị Ngọc Thảo, GS Cao Huy Thuần (phải) và một số bạn SV đại học Huế trong chuyến đi làm từ thiện tại xã Vân Phong (Huế) |
Trong con người và trong cuộc đời Tạ Thị Ngọc Thảo đã qui nạp nhiều tư cách mà tư cách nào cũng là sự kết tinh từ những trải nghiệm đớn đau chân chỉ. Tôi muốn dẫn ra đây một tư cách nữa mà mình có thể chia sẻ được với chị bởi nghiệp dĩ viết và đọc. Tôi đọc chị chưa nhiều nhưng những gì cần để tham chiếu cho cái gọi “văn là người” thì hầu như đã đủ. Là một doanh nhân mẫu (chữ của Giáo sư Cao Huy Thuần), một doanh nhân đạt được giá trị xã hội tôn vinh mà bao nhiêu người phải ngước lên thì chị đâu cần phải viết gì. Thời buổi này nó thế. Có lẽ chị viết không phải do nhu cầu giải toả những ẩn ức nội tại như các nhà văn thường nói mà viết để “pháp thí”. Pháp thí là hình thức từ thiện bằng trí tuệ tâm linh, nó cao hơn tài thí (tiền của) nên không mấy doanh nhân làm được. Điều này người xưa cũng đã nói. Khi Khổng Tử đến yết kiến Lão Tử, lúc về Lão Tử nói “Người giàu sang dùng của cải tiễn nhau, bậc trí giả dùng lời nói tiễn nhau...” Và rồi những lời khuyên của Ông đã làm cho Khổng Tử động lòng ám ảnh. Thực chất của pháp thí là lời chân thật mang năng lượng độ nhân. Mặc dù đề tài chị viết là bao quát từ chính trị - xã hội, kinh tế - văn hóa, khoa học - tôn giáo đến văn học nghệ thuật và sự kiện thì phóng túng từ vi mô đến vĩ mô nhưng hồn cốt của mọi vấn đề đều trong quỹ đạo ấy. Quỹ đạo thức nhận đường biên cứu rỗi hoặc ngưỡng cửa giải thoát. Mặc dầu viết lách chưa hẳn là sở trường nhưng bút lực Tạ Thị Ngọc Thảo lại rắn rỏi đẳng cấp chuyên nghiệp. Nó khẳng định tư cách nhà văn của chị. Hơn nữa, chị là một nhà văn có thiên tư khoa học. Khoa học ở chị bao hàm cả thực nghiệm lẫn huyền bí. Khoa học thực nghiệm chỉ gồm cái biết và cái chưa biết, khoa học huyền bí còn thêm cái không thể biết (bất khả thuyết pháp). Không thể biết chính là cái vi diệu của vũ trụ, là cứu cánh đích thực cho đời sống vô minh những kiếp người. Giọng riêng của chị thể hiện qua cửa sổ thi pháp luận đề hóm hĩnh mà sâu sắc, dung dị mà thẩm mĩ, chân phương mà giàu hàm lượng chất xám. Những chính kiến chân thành về sự thật mang tính phản đề cuộc sống, phản kháng xã hội luôn tiềm ẩn những rủi ro hiểm hoạ cho tác giả nói chung mà tác giả ở đây lại là một nữ doanh nhân không có sự bảo kê nào cả. Để thấy rằng nhân cách và bản lĩnh của người cầm bút chân chính bao giờ cũng sẵn lòng hi sinh mình vì Cái Đẹp. Cái đẹp cứu chuộc thế gian, Dostoievski đã từng lập ngôn như thế trong trước tác của mình. Đức Jesus đến từ nước Trời để cứu chuộc thế gian cũng bằng phương thức pháp thí và cuối cùng chịu đóng đinh phơi mình trên Thập tự giá. Hội đủ phẩm chất của một người trần thoát tục, Tạ Thị Ngọc Thảo trở nên hoàn hảo lành lặn trong cái thế giới rách nát khốn cùng mà mê lầm và ngộ nhận đến đáng thương này.
Viết về chị tưởng chừng như cả cuốn sách cũng chưa đủ nhưng nếu cần tóm gọn một câu thì có thể ám đạc rằng: Tạ Thị Ngọc Thảo là một doanh nhân chân tài, một phật tử chân tâm, một văn bút chân ngôn đang độc hành về phía chân không. Chân không ấy là lối đi riêng mà sau một đêm thỉnh chứng được Lục Tổ Huệ Năng ấn khả, thiền sư Huyền Giác đã biểu ngộ trong Chứng Đạo ca: Voi không dạo chơi trên lối mòn thỏ chạy.
N.K.T
(SH278/4-12)
PHAN THỊ THU QUỲ(Hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”)
LÊ KHAI Bút kýAnh đưa tôi một tờ giấy cuộn tròn và nói: Tuần qua tôi đi tìm mộ liệt sĩ ở Truồi (huyện Phú Lộc). Tìm một mộ mà phát hiện ra tám mộ. Buồn! Tôi làm bài thơ. Anh xem và chữa giúp. Cả đời tôi chưa quen làm thơ. Anh chào tôi rồi vội vã về vì đang có việc cần.
HÀ KHÁNH LINH Trích Hồi ký… Mùa xuân 1967, địch tăng cường đánh phá suốt ngày đêm, ngày một ác liệt hơn. Các trạm khách dọc tuyến đường 559 không ngày nào không bị đánh trúng hoặc B52 hoặc bom tọa độ, hoặc pháo tầm xa. Ngày nào cũng có thương vong. Có những đơn vị trên đường hành quân vào Nam chưa đến địa điểm tập kết đã bị đánh tơi tả, chỉ còn sót lại vài người. Các cơ quan đơn vị đóng chung quanh khu vực phần nhiều đã bị đánh trúng.
TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ Tạp bútNhư nhân duyên, như định mệnh, cuộc đời tôi như thu hết vào trong một chung trà. Tuổi thơ đã qua, bây giờ và sẽ mãi mãi, cuộc đời tôi luôn vương vấn một hương trà. Tôi thường hay nói đùa cùng bằng hữu rằng sinh ra và lớn lên được ướp trong hương trà, tôi cũng chỉ mơ một ngày về thiên cổ được vẫy tiễn linh hồn bằng một chén trà ngon, được chôn theo cùng là một bộ ấm trà quý nhất và được vẫn cùng người “hồng nhan tri kỷ” đồng ẩm tương phùng ở thế giới bên kia!!!
TRẦN KIM HỒĐảo Cồn Cỏ là vọng gác tiền tiêu, là con mắt của Vĩnh Linh - khu Vĩnh Linh là tiền đồn của miền Bắc XHCN, là hậu phương trực tiếp của tiền tuyến lớn miền Nam; do đó đảo Cồn Cỏ có vị trí vô cùng quan trọng, mặc dù diện tích chỉ có 4km2. Mât Cồn Cỏ, miền Bắc XHCN trực tiếp bị uy hiếp, nhất là vào lúc nguỵ quyền Ngô Đình Diệm không ngớt hô hào lấp sông Bến Hải, Bắc tiến; đế quốc Mỹ từng trắng trợn tuyên bố biên giới Hoa kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGHai cái máy lạnh hai cục trong căn phòng 40m2 của nhà hàng Hoa Chuối cộng với cả trận mưa chiều đột ngột tầm tã không làm dịu được sức nóng từ tấm thịnh tình của gần 50 cộng tác viên thân thuộc của tạp chí Sông Hương tại thủ đô Hà Nội.
TÔ VĨNH HÀTrong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, 60 năm qua là một chặng đường đặc biệt. Chưa bao giờ dân tộc ta phải đương đầu với nhiều thử thách đến như thế, phải chiến đấu và chiến thắng nhiều kẻ thù đến như thế. Pháp rồi Nhật, Tưởng và Anh; hết Mỹ đến Khơmer “đỏ”... Kẻ thù và đau khổ nhiều đến mức tưởng chừng như đất nước Việt Nam được tạo hoá sinh ra là để cho các loại kẻ thù nhòm ngó, tìm mọi cách thôn tính.
NGÔ MINHTừ tháng 7-1954, Hiệp định Giơnevơ ký kết cho đến cuối năm 1964 đôi bờ giới tuyến Hiền Lương lặng im tiếng súng, nhưng đây là 11 năm diễn ra cuộc đối đầu văn hóa nóng bỏng, quyết liệt nhất giữa ta và địch.
PHAN THỊ THU QUỲ Trên bờ Hương Giang êm đềm, có ngôi nhà nhỏ tôi được sinh ra ở đó. Hằng ngày tung tăng cắp sách đến trường Đồng Khánh, tôi cũng nhảy nhót trên bờ Hương Giang. Lớn lên tôi hoạt động nội thành thường đến hò hẹn bên cây phượng vỹ trước cửa Thượng Tứ, nơi đó là địa điểm giao nhận những “gói nhỏ”, để nhận công việc và để nhớ mật hiệu. Cho nên trên bờ Hương Giang tôi đã ngắm dòng sông thơ mộng với tôi gắn bó biết bao từ tuổi ấu thơ cho đến bước vào đời.
NGUYỄN VĂN VINH Bút ký Thôn Hiền An, xã Vinh Hiền là một thẻo đất cát bạch sa cuối phá Tam Giang phía Bắc vào. Như một ốc đảo ba bề, bốn bên là nước, nếu không có đường 49B chạy dọc phá đến cùng đường, tận biển. Và mỗi ngày, hai chuyến xe đò chở khách cùng mấy chục chuyến đò ngang phá qua lại Lộc Bình đem chút xôn xao thị tứ, phố chợ về với thôn, xã thì Hiền An càng xa xôi heo hút.
TRẦN HOÀI Ghi chépThung lũng A Lưới chạy dài theo hướng Bắc Nam đến vài chục km. Đó là một thung lũng đẹp, là một vị trí quân sự chiến lược, là nơi giao tranh ác liệt giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến vừa qua...
LÊ BÁ ĐẢNGBạn của tôi rất nhiều. Năm ba bạn mà tôi nhắc nhở ra đây phần nhiều là bác sĩ, kỹ sư, giáo sư còn nghệ sĩ thì chất cả đống.
NGUYỄN THẾ QUANGMùa hạ, trời Bát Tam Boong trong xanh. Những hàng cây thốt nốt lặng lẽ kiêu hãnh xòa những tán lá xanh che mát cả khu đồi. Trong căn nhà của sở chỉ huy Sư 179 quân đội Cămpuchia, trung tá Nguyễn Văn Du chuyên gia của bộ đội Việt Nam cởi thắt lưng ra treo khẩu K54 lên vách. Anh vui mừng trước khả năng chiến đấu ngày càng tốt của quân đội bạn. Trận đánh trả lực lượng quân đội Thái Lan bảo vệ sáu nghìn dân tị nạn ở chòm Rumthumây diễn ra nhanh chóng.
TỐ HỮU Trích chương V, hồi ký Nhớ lại một thời
VÕ MẠNH LẬP Ghi chépTrong những ngày tháng ba, hai lẻ sáu trời Hà Nội đẹp và dễ chịu. Cái nắng vàng phủ tràn thành phố, tôn màu của cây thêm xanh biếc, ngói trên các mái nhà như thắm thêm lên, đường phố đi lại thanh thoát và đặc biệt có chút se lạnh vào sáng sớm như sợi tơ vương của hơi thở cuối mùa đông còn lưu sót lại.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMã Yên là tên trên bản đồ của một ngọn núi, còn dân địa phương thì gọi đó là núi Yên Ngựa. Núi Yên Ngựa là một trong những ngọn núi ngoài cùng về phía Đông của dãy Trường Sơn.
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýNắng chiều vàng trải dài trên những hàng bia trắng như mơ, như kỳ ảo. Đi trong nghĩa trang tôi có cảm giác mình như đang ngỡ ngàng, có cái gì đó nghèn nghẹn nơi cổ khi hàng hàng những bia trắng dài kia không có một nét mực ghi tên. Đó là những tấm bia vô danh.
NGUYỄN TRI TÂMNgười kể chuyện phải lục tìm những tấm ảnh lưu niệm để nhớ chính xác hơn. Sau tấm ảnh đen trắng cỡ 18x24, tướng Hoàng Văn Thái kí tên và ghi rõ “Thân tặng đồng chí trung tá Lương Văn Chính, người chiến sĩ Điện Biên năm xưa, huyện đội trưởng huyện đội Điện Biên. Kỉ niệm ngày lên thăm Điện Biên 3-4-1984”.
TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.
HOÀNG QUỐC HẢI Bút kýVì sao khi Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) được nước, cung điện nơi thành Hoa Lư các vua Đinh, vua Lê dựng như “điện Bách Bao thiên tuế, cột điện dát vàng, dát bạc làm nơi coi chầu, bên đông là điện Phong Lưu, bên tây là điện Cực Lạc, rồi làm lầu Đại Vân, dựng điện Trường Xuân làm nơi vua ngủ, bên cạnh điện Trường Xuân lại dựng điện Long Lộc, lợp bằng ngói bạc...”, lâu đài điện các như thế, tưởng đã đến cùng xa cực xỉ.