Vỏ và cánh

14:34 26/08/2013

NGUYÊN QUÂN  

Lão Đạo vẫn ngồi chò hỏ, kiểu ngồi đặc trưng đôi chân trần dính kết bùn đất trên giường ruộng của nền văn minh lúa nước. Hai khuỷu tay lòi cục, trơ xương, chống tựa lên hai đầu gối cũng lòi cục trơ xương. Bốn khớp linh động tỳ lên nhau, trở thành bất động.

Minh họa: Lê Minh Phong

Hành thế vô động của lão chẳng phải chỉ riêng ở chuyện ngồi. Đôi mắt nằm lọt thỏm trong đám da nhăn nhíu nhàu khô cũng đứng phắt, tịnh không một chút luân chuyển.

Trong hốc cây cái xác con ve sầu nâu nhạt trong suốt nhìn thấu đến tận cùng. Đeo bám trên một mảng cây cũng màu nâu nhạt.

Chính thấu thị trong suốt đến trần trụi của một cái xác vỏ bị bỏ lại đã tạo nên sự bất động của lão Đạo. Một mối liên kết vừa buồn cười vừa phi lý giữa thực thể đang sống và xác vỏ không còn hồn phách.

Bầu trời cuối thu, ẩm ươn xám đậm. Chiều đã rơi vào hoàng hôn. Ánh tà dương hắt hiu càng làm khuôn mặt choắt khô, nhăn nheo khắc kỷ của một con người đi qua gần hết nghiệp sống thêm hiu hắt, ở trong cái hốc, xác ve càng sẫm đậm hơn.

Cơn giông muộn của mùa thu, tràn về từ phía núi xa, ầm ì vạch từng luồng chớp sáng trên dãy phố chợ đã vắng teo, không còn lời mặc cả, chẳng âm tầng thương lượng.

Cả khoảng không gian chợ đời vốn đầy ba động, lúc này chỉ còn lão Đạo ngồi chò hỏ bất động bên ngoài và xác vỏ con ve sầu bất động phía trong hốc cây đa.

Thỉnh thoảng vài gã đạp xích lô ì ạch trườn qua, bỏ lại thanh âm cọt kẹt... cọt kẹt đến dại lòng.

Vài người đàn bà bám chặt đôi quang gánh xoãi bước nhanh, bỏ lại tiếng dép lê xoèn xoẹt...

Rồi tất cả sự sống động đều trôi tuột, mất hút dưới cái cổng thành gạch nâu loang lở, dĩ nhiên sự bất động của cái cổng thành từ thời phong kiến được vinh danh di sản thế giới cũng chẳng sống động, dù đã nhuốm biết bao nhiêu mồ hôi, xương máu của hàng vạn con người từng quần quật xây dựng lên nó. Hàng vạn sức ba động rồi cũng trở thành vô động.

Không một ai rỗi hơi ngoái nhìn thanh âm sự sống của mình ném lại giữa khoảng chợ đời, nơi lão Đạo vẫn ngồi bất động. Xác ve cũng bất động bám ngược trong hốc cây sần sùi gần bị che khuất bởi những lọn rễ chảy từ đám lá rậm rì xuống như râu hát bội của những gã võ quan, những hiền nhân minh triết múa máy quay cuồng trên khoảng sân đình. Mua vui cho đám trẻ con, cho những người đàn ông, đàn bà nông dân tẩy rửa thành tâm đến mấy cũng phảng phất mùi bùn đất.

Bên trong hay bên ngoài chiếc hốc chỉ là một hình thể già nua bất động.

Xác con ve sầu nâu nhạt và trong suốt vô giác, nhưng lão Đạo là một thực thể sống, đang còn sống. Biểu hiện sự sống là hơi thở. Những chiếc lông bạc thếch thò ra từ hai hốc mũi sâu ngòm của lão vẫn phất phơ theo chu kỳ nhất định. Thật chậm, mấy chục giây mới rung một nhịp.

Mấy chục giây một nhịp thở là tiết tấu chuẩn, lão đã khổ luyện ngồi thiền và tạo dáng theo Dịch cân gần hết một đời người.

Lão Đạo vẫn ngồi bất động trong thế chò hỏ, dĩ nhiên chẳng phải kiểu ngồi thiền hay Dịch ngoại nhập. Mọi trực quan của lão lúc này là cái xác ve sầu, nhưng sự suy tưởng sau lớp vỏ não vốn chật ních giáo điều đã bị đẩy tới đỉnh điểm.

Lão đang trầm tư về cái xác nâu nhạt và hoài nghi sự trong suốt lạ thường ấy...

Phải chăng trong cái hữu cơ bị phế thải, có mang thông điệp siêu nhiên tiến trình thoát xác của loài côn trùng siêu hạng ẩn dật, ẩn tàng, ẩn thân trong bóng tối hàng chục năm trời, chỉ chờ đợi thời cơ hóa thân vài ngày tuổi được bay, được ríu rít ca ngâm, được làm tình, truyền giống rồi “chết”.

Hay chỉ đơn thuần là một mẫu vật chất vô hồn còn lại sau lần hoán đổi từ dạng này sang dạng khác bằng định mệnh bất biến của một sinh linh.

Trí não của lão Đạo căng cứng. Những luận giải chủ quan đang dần hình thành một khối vật chất ngầu đục, dạng vỏ bọc nặng nề vá víu đầy khuôn thước, ngữ nghĩa, những phán truyền, răn dạy, những tư tưởng, triết luận từ Đông phương thẩm sâu nội thể, từ phương Tây duy lý giải phẫu tanh bành đã đeo đẳng hàng chục năm dài trong nỗ lực ly khai sự thối rữa nhục thể của lão, và bây giờ đang bao bọc chung quanh sự bất động của lão.

Tất cả mọi thứ gom góp một đời ấy đều cô đặc, ngưng trệ trước cái xác ve.

Nó đang ở đâu sau cú thoát xác ngoạn mục, để bay lượn giữa những vòm mây ngũ sắc, ca hát trên một cõi thiên đường bất diệt vô ưu nào đó...?

Nó cũng đang bị quay tít trong vòng luân hồi nghiệt ngã để mục rã thêm một lần xác, đâu đó dưới lòng đất. Nơi nó mù lòa ẩn thân chờ đợi nhiều năm tháng dài.

Lão Đạo càng lúc càng rơi sâu vào mê trận của thuật ngữ, của nghi vấn, của chân xác của hiện sinh, của hư vô.

Trong trạng thái bị phân lập, tiềm thức lại có cơ hội trổi dậy chơi xỏ lão. Nhiều năm dài lão Đạo cố không nhớ, vì lão quan niệm tơ tưởng tiềm thức là thứ hàng hóa xa xỉ phải mua bằng thời gian sống.

Tiềm thức hiện thân trong một thằng bé, tấm lưng trần còm cõi với những vết bầm xước, nứt nẻ. Cầm chiếc đuốc lồ ô, quờ quạng đi giữa khoảng vườn đầy bóng tối. Nó đi chầm chậm, từng bước chân trần dẫm lên lớp cỏ ướt sương. Đêm vẫn khô khao tiếng đại bác tầm xa vọng về từ những chóp núi loang lở trơ cháy, quyện lẫn với tiếng ồm oạp của lũ cóc nhái uệnh oạng ễnh ương, biến cải thành phiên khúc tang thương, chết chóc.

Mặc những âm tầng mang giai điệu tang thương chết chóc, thằng bé và chiếc đuốc cứ chầm chậm đi, tỉ mỉ soi rọi từng gốc cây, từng bụi cỏ. Chiếc giỏ tre đeo xệch bên hông nhốt chật cứng lũ ve non. Con vừa chui lên khỏi mặt đất chưa thoát khỏi trạng thái mù lòa, con chưa kịp dấn thân vào hành trình thoát xác, con chưa kịp rung đôi cánh mỏng tang để bay lên...

Trong khoảng vườn đổ đầy bóng tối, thằng bé vẫn đi với chiếc đuốc lồ ô. Trong ký ức mùi bếp lửa, mùi cháy khét của đôi cánh, của tiếng giãy chết và mùi thơm ngầy ngậy da thịt côn trùng được nướng chín, lão đạo rùng mình, phá tan thế ngồi bất động.  

Thằng bé và chiếc đuốc lồ ô chập chờn ánh lửa đi từ bắt đầu bóng đêm, đi sâu, đi xuyên qua suy tưởng của lão Đạo. Nó đi qua giống những người đàn bà đôi vai trĩu nặng quang gánh, những gã xích lô ì ạch đạp qua và không bao giờ quay đầu nhìn cái xác ve sót lại trong hốc cây đa.

Lão Đạo vẫn ngồi chò hỏ, bốn khớp hoạt tỳ lên nhau, kiểu ngồi bất động đầy trăn trở đã bị phá tan trong cuộc chiến chống trả thằng bé đột hiện từ quá khứ khiến cơn tê dại từ khớp tay khuỷu chân lan nhanh, lão dần rơi vào trạng thái vô giác, lớp vỏ não bị xuyên thủng, từng nơ ron thần kinh nhũn nát, những sợi lông mũi cũng không còn chuyển động theo chu kỳ.

Lớp võ mù đục bao quanh hình hài già nua còm cõi đang dần chuyển màu đậm hơn, nặng nề hơn.

Lão Đạo không còn nghe âm thanh thường hằng của phố chợ, âm thanh chết chóc vọng về từ những chỏm núi xa, âm thanh oàm oạp thân thuộc của những cánh đồng, khu vườn trĩu hoa trái. Lão không còn nhìn thấy những luồng chớp sáng của cơn giông từ bầu trời dội xuống, không thấy xác ve, hốc cây đa, không thấy những bóng người đã đi lướt qua và không thấy bóng mình đang thu nhỏ dần. Lão không còn ngửi được mùi ủ mục của lá chết, mùi tế bào chết bong lóc khỏi thân thể, mùi khét cháy, mùi ngầy ngậy...

Một hồi chuông nguyện cuối ngày chợt ngân vang, tiếng chuông từ một ngôi chùa, một tháp chuông nhà thờ, một thánh thất nào đó, có thể là từ tất cả hoặc không từ một nơi nào. Nhưng là vọng âm khải huyền báo hiệu cuộc chơi sinh tử của lão Đạo với cái xác ve khô bây giờ mới thật sự bắt đầu.

Mọi giác quan bị phong tỏa, cô lập trong lớp vỏ mù đục hàng chục năm dài, nhân cơ hội thân xác bị băng hoại cũng cựa quậy hồi sinh, chúng bắt đầu ly khai, phá vỡ lớp vỏ mù đực xơ cứng.

Bay.

Vệt nứt dài trên lưng xác ve cố mở lớn mấy chiều không gian thành một vực xoáy sâu thẳm cuốn hút tất cả vào lại bên trong, nghiền nát, chế tác đôi cánh lụa mỏng tang.

Ở đâu đó trên tàng cây lá rậm rì, chợt bật lên một tiếng ve ngân, thứ âm thanh trái mùa lạc lõng cô độc.

Quán café Sửu 13/01/2013
N.Q  
(SH294/08-13)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Năm 1966 thầy Phan Linh dạy Toán lớp 7A tại trường cấp II xã Phúc Giang. Đó là năm chiến tranh phá hoại rất ác liệt. Máy bay Mỹ cứ nhằm những tụ điểm đông người thả bom. Học sinh đến trường phải đội mũ rơm. Để tránh bom đạn trường Phúc Giang phải sơ tán về các làng, các xóm học tạm. Lớp 7A của Phan Linh sơ tán về làng Mai.

  • Gió từ đại dương lồng lộng thổi qua cửa sông, qua bãi cát trắng xoá rồi vỗ đập vào những tàu lá dài ngoằng của loài dừa nước, oà vỡ những thanh âm xạc xào.

  • Đúng sáu năm tôi không trở lại thành phố ấy dẫu rằng trong lòng tôi luôn luôn có một nỗi ham muốn trở lại, dù trong sáu năm tôi giấu kín trong lòng mình điều đó, chôn thật sâu trong suy nghĩ của mình, chẳng hề nói ra.

  • Chúng tôi tìm được địa điểm chốt quân khá lý tưởng. Đấy là chiếc hang đá ở lưng triền núi; hang cao rộng vừa lõm sâu vào vách núi. Cửa hang được chắn bởi tảng đá khổng lồ, rất kiên cố; dù máy bay Mỹ có phát hiện thấy cửa hang mà phóng rốc két, đánh bom tấn thì người ở trong hang vẫn chẳng hề gì! B52 có rải thảm bom thì lại càng không ăn thua.

  • Sau khi dọn bàn ghế xong, bà Lan chọn chiếc bàn kê sát ngoài cửa ngồi trang điểm. Từ ngày mở quán, bà đâm ra có thói quen ngồi trang điểm như thế, vừa tiện việc mời chào khách, vừa có đủ ánh sáng đầu ngày.

  • Chiếc váy của Tuyl Cleng va quệt không ngớt vào mấy vạt cỏ hai bên vệ đường. Những chỉ hoa văn ở riềm váy trông như hai cánh tay chạy như bay xuống đồi. Cuốn vở học trên tay cô nhịp nhàng lên xuống như chiếc quạt diễn viên múa. Mùa xuân sắp đến, trời đất như rộng rinh thêm. Những con chim trao trảo, chèo bẻo, ta li eo... cũng hót vang bên rặng rừng, vui lây theo nỗi vui của Tuyl Cleng.

  • Ven Hồ Gươm ở phía lề đường bên phải, cách chân tượng vua Lê Thái Tổ ước ngoài trăm mét, luôn có một bồ đoàn. Bồ đoàn là chừng dăm tấm thảm Tầu rải sàn nhập lậu từ các tỉnh phía Bắc được các gia đình Hà Nội trung lưu ưa dùng.

  • 1Sau lần đi gặt thuê cho đồng bào dân tộc ở Vĩnh Thạnh về, tôi bị trận sốt rét nặng. Dai dẳng trở đi trở lại gần ba tháng mới khỏi. Những ngày sau đó, trong người thấy cứ nôn nao, bứt rứt.

  • Có thể cô gái ấy đã trồi lên từ thủy cung do thủy triều xuống quá nhanh. Một nửa thân hình của cô từ dưới eo trở lên, hoàn toàn khỏa thân nhô ra khỏi mặt nước.

  • Mặt trời như còn ngái ngủ. Cùng với cánh cò trắng từ đâu bay về sáng nay, tôi bần thần chờ đợi một điều gì đó. Nó mong manh và đằm thắm theo về với cơn gió lạnh. Như mặt trời vẫn thập thò, như đường về mệt mỏi, như hàng cây đìu hiu. Vừa gần gũi tưởng có thể ôm giữ được mà cũng vừa cách xa vời vợi.

  • Hôm qua nghe đài, có một cái tên giống hệt người thân của mình đã mất tích trong chiến tranh. Rồi một tên khác, kế tiếp một tên khác với hòm thư toàn những chữ số. Hai anh em tôi nhìn nhau. Đã biết bao lần anh em tôi nhìn nhau như vậy. Từ khi con bé thiên thần kia còn chưa biết khóc vì buồn.

  • ITiệc có vẻ sắp tàn. Nàng đứng lặng lẽ gần cửa ra vào đưa mắt bao quát căn phòng rộng. Đèn chùm sáng trắng. Nhạc êm dịu trong phòng hôn lễ đã giúp nàng tự tin hơn khi bước chân vào có một mình với bộ đồ xoàng xĩnh đang mặc.

  • Bây giờ thì Hồng sắp được gặp chị. Người chị mà suốt những năm tháng đi xa, ở đâu Hồng vẫn luôn nghĩ tới. Cứ mỗi lần như thế, một tình cảm thân thương choán ngập tâm hồn Hồng.

  • - Mẹ nếm thử xem. Con cho thêm một tý đường nữa nhé.Tôi ngừng tay bên rồ rau sống xanh um cầm lấy thìa nước chấm nhấm nháp lắng nghe vị vừa chua vừa ngọt vừa bùi bùi tan ra trên đầu lưỡi: - Một thìa nhỏ nữa thôi con. Ngon rồi đấy.

  • Bác Hai đang ngồi trước mặt tôi, lặng im như pho tượng. Đôi mắt bác đăm đăm không chớp, nhìn về một cõi xa xăm mà tôi đoán chừng là ở nơi ấy chắc chắn có những kỷ niệm vui buồn về người em trai của bác, chính là cha tôi.

  • Cuối năm, Đài truyền hình liên tục thông báo gió mùa đông bắc tràn về, miền Tây Bắc nhiệt độ 00C, khu vực Hà Nội 70C...

  • Tôi tạm xa Hà Nội một tuần. Cũng chẳng biết là phải xa hay được xa nữa. Bố mẹ phái: - Cho con Hạ đi ăn giỗ!

  • Tặng anh Hữu Ngọc, anh Đoàn, Lành - Ngọc Anh. Tưởng nhớ chị TâmHảo không có giấy mời. Có thể những người bạn cũ của anh ở Huế cũng đã nghỉ hưu cả rồi, hoặc giả họ bận trăm công ngàn việc nên cũng chẳng nhớ anh ở đâu mà tìm... Song điều ấy không quan trọng.

  • Chiến tranh biên giới Tây Nam kết thúc, nhận tấm thẻ thương binh, tôi trở về quê nhà. Để bớt gánh nặng kinh tế cho gia đình, tôi dã dành tất cả số tiền chính sách nhận được mở một quầy sách báo. Khách hàng của tôi khá đông.

  • Ông Biểu đột ngột nằm xuống. Tưởng như mọi cái đâu vào đấy. Như linh cảm trước, cuối năm con hổ, ông Biểu đã sắm cỗ áo quan dạ hương thơm nức. Xe cộ cần bao nhiêu chẳng có. Mọi thứ nếu muốn, chỉ sau một tiếng “alô” là tha hồ.