Viết tiểu thuyết là một công việc cực nhọc

10:00 25/06/2009
BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

Tôi có theo dõi những cuộc hội thảo, những cuộc tổng kết... và thấy các nhà văn, các nhà phê bình nghiên cứu đều rất sâu sắc khi chỉ ra những nguyên nhân làm trì trệ nền tiểu thuyết của chúng ta, nhưng có một nguyên nhân được nhắc tới rất nhiều trong khi trà nước trao đổi than thở cùng nhau nhưng lại không được nói tới, không được bàn bạc kỹ càng thấu đáo trong hội thảo, mà theo tôi lại vô cùng quan trọng, đó là dân chủ hoá đời sống văn học.

Câu nói cửa miệng của các nhà văn, nghe đến thuộc lòng là “chúng ta đang sống trong thời đại của tiểu thuyết mà không có tiểu thuyết” có chứa đựng nguyên nhân trên. Mỗi khi cầm bút viết tiểu thuyết tôi hay nhớ đến Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng. Chúng ta đều biết Vũ Trọng Phụng chẳng những đùa với tất cả, từ cảnh sát, y học, đến những danh hiệu của nhà vua, ông còn bịa ra cả lịch sử. Làm gì có chuyện nhà vua Xiêm La cùng nhà vua Việt Nam xem đấu quần vợt và chiến tranh đã không xẩy ra, hoà bình đã được duy trì bằng cú lốp bóng hỏng của Xuân Tóc Đỏ, để rồi Xuân trở thành anh hùng cứu quốc!

Trong đời sống văn học của nước ta những năm gần đây có một hiện tượng đáng chú ý: Đó là việc dịch và in Mạc Ngôn. Nhà văn Trung Quốc này đã được đón tiếp nồng nhiệt. Báo chí viết rằng có một cơn sốt Mạc Ngôn. Tôi nghĩ nếu chỉ xét riêng về văn chương, Mạc Ngôn sẽ không được chào đón như vậy. Sáng tác hay nhất của Mạc Ngôn có lẽ là Cao lương đỏ, một quyển truyện trên trăm trang, một Mạc Ngôn hồn nhiên, chân chất, không quá say sưa với việc biểu diễn ngón nghề. Tôi cho rằng khi chúng ta hoan nghênh, chào đón Báu vật của đời, Đàn hương hình, Những cây tỏi nổi giận, Rừng xanh lá đỏ chúng ta chào đón nhiều hơn việc cho xuất bản những tác phẩm trên. Mạc Ngôn là cái cớ để bầy tỏ một nguyện vọng. Đủ biết nhu cầu được nhìn khác đi, được viết khác đi, được in khác đi là to lớn, cấp thiết biết chừng nào.

Người ta đã đúc kết rằng trong thời kỳ văn chương trước cách mạng, các tác phẩm hay của các nhà văn gần như cùng đồng thời xuất hiện. Thời đầu chống Pháp cũng vậy mà dễ dẫn chứng nhất là âm nhạc. Văn Cao có Trường ca sông Lô thì Nguyễn Đình Thi có Tiếng hát người Hà Nội, Đỗ Nhuận có Du kích sông Thao... Nói theo cách dân đã là con gà tức nhau tiếng gáy, còn nói cho có vẻ hơn thì đó là sự ganh đua, thi đua làm việc, cùng nhau góp hết sức mình để khu vườn nghệ thuật thêm tươi thắm, nhiều màu sắc.

Điều đáng buồn là các nhà văn hôm nay không có ý thức như thế nữa. Thậm chí chúng ta còn không đọc của nhau. Bởi vì trực tiếp đối thoại, nghe bạn tâm sự, cởi mở chân thực chắc chắn thú vị hơn đọc những điều đã được bạn mình gọt giũa, mài tròn hoặc bịa đặt vụng về cốt sao cho đúng để được in. Chúng ta không đọc của nhau những vẫn cứ nức nở khen nhau. Sự thờ ơ ấy là có thật, là phổ biến, là hoàn toàn dễ thông cảm, là công khai không giấu diếm giữa các nhà văn. Nó ăn mòn sự kích thích nhau làm việc, dẫn đến sự trung bình trong ham muốn, cái ham muốn viết được một tác phẩm để đời. Tình trạng này là vô cùng nguy hiểm. Tôi đề nghị Hội Nhà văn và cả các cấp trên của Hội hãy tạo dựng một không khí thi đua sáng tạo trong các hội viên và trong cuộc thi đua sáng tạo này hãy dành chỗ cho mọi khuynh hướng, mọi cách tiếp cận và thể hiện cuộc sống, mọi phong cách viết. Cũng như chúng ta sẽ nói chuyện với những tác phẩm xấu, non kém bằng hội thảo, bằng phê phán công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta nói chuyện với những tác giả và những tác phẩm vi phạm pháp luật bằng pháp luật chứ không cho rơi vào im lặng.

Chúng ta đều biết rằng tiểu thuyết là xương sống của một nền văn học cũng như biết rằng viết tiểu thuyết là một công việc cực nhọc. Khi viết dòng đầu tiên trên trang đầu tiên, trước mắt chúng ta là một chặng đường dài đến kiệt sức mà chưa nhìn thấy điểm kết thúc. Đó là cuộc mộng du vĩ đại và ta phải triền miên là một kẻ cực đoan. Bất kỳ ai sáng tạo đều cực đoan, nhưng người viết tiểu thuyết phải là kẻ cực đoan suốt nhiều tháng nhiều năm và phải luôn giữ vững sự cực đoan ấy nghĩa là phải có lòng tin lì lợm ở bản thân. Tin ở cuộc sống mình trình ra trước bạn đọc. Tin ở nghệ thuật của mình. Và nhất là tin ở tấm lòng mình. Để có thể dám là mình. Để có thể chân thực, không né tránh. Để có thể đẩy nhân vật tới tột cùng của số phận. Để không tự kiểm duyệt, tự cắt xén, tự pha loãng mình thành một thứ xi rô. Để có thể thể hiện cuộc sống như nó vốn có, bề bộn, ngổn ngang, nhiều dòng, chẳng bao giờ quy về một mối. Tiểu thuyết không đi đôi với sự dè dặt cẩn trọng hiền minh. Như Kun-đê-ra nhà tiểu thuyết người Pháp gốc Tiệp đã viết: “Quyển tiểu thuyết nào không khám phá được một mẫu của sự sống trước nay chưa từng có là một quyển tiểu thuyết vô đạo đức. Hiểu biết là đạo đức duy nhất của tiểu thuyết”.

Tôi luôn tin chúng ta sẽ viết được những quyển tiểu thuyết như chúng ta hằng mong ước cũng như tôi luôn tin mỗi giọt máu của chúng ta đều cháy lên lòng yêu Nhân Dân, yêu Đất nước, một Nhân Dân, một Đất nước đã đổ máu, đổ mồ hôi, đang vượt qua mọi khó khăn xây dựng cuộc sống mới và đang chờ đón những tác phẩm của chúng ta.

B.N.T

(178/12-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.