ARESS MOHAMED
Trong lòng con thuyền đang lênh đênh trên mặt biển là 12 người, 7 đàn ông, 4 phụ nữ và 1 đứa trẻ. Đứa bé hình như đang thiếp đi trong vòng tay mẹ nó. Tính đến nay, con thuyền đã trôi được bốn ngày.
Minh họa: Đặng Mậu Tựu
Người phụ nữ ôm con nhìn rất đờ đẫn và sa sút, tiếng hát ru lẫn với tiếng thở dài. Có lần, chị giơ con hứng sương mù Địa Trung Hải. Có lúc, chị vốc nước biển lên rửa mặt cho nó, khiến đứa bé bị muối làm cay mắt. Sóng biển dềnh lên dập xuống, khiến đầu họ gục gặc theo. Bất kể khi thức hay ngủ, tay người nào cũng bám cứng lấy thành thuyền. Đột ngột, mọi người rục rịch cử động và hướng mắt về phía mặt trời lặn. “Nhìn kìa, Guleed”, một phụ nữ áng chừng ngoài ba mươi tuổi nói với thiếu niên ngồi cạnh, “Bờ biển đấy. Bờ biển đúng không?” Vừa nói, chị vừa vỗ vỗ vào vai cậu thiếu niên.
Guleed không nói chuyện. Kể từ khi họ cùng nhau lên chiếc thuyền này ở Tripoli (Liban), cậu chưa hé môi nửa lời. Ngay cả một mẩu bánh mỳ khô mà họ mang theo, cậu cũng chưa cắn một miếng. Bất cứ ai bắt chuyện, cậu đều đáp trả bằng thái độ gắt gỏng. Người phụ nữ không bỏ cuộc, “Mẹ thấy có ánh sáng. Con cũng nhìn thấy nó phải không?”.
“Trông nó thế nào?”, Guleed hỏi bằng giọng khào khào như thể tiếng thì thầm. Có vẻ, lưỡi của cậu quá yếu để nảy thành tiếng, còn bụng thì chẳng khác nào chứa tảng than nóng rẫy bên trong. Người phụ nữ nhíu mày, cố nhìn xa. “Màu cam thì phải. Chúng chuyển động và nhảy nhót”.
Con thuyền tiếp tục lướt, phát ra tiếng kêu kẽo kẹt dưới sức nặng của cả thể trọng lẫn ước mong, ký ức, nỗi sợ hãi… của những người ngồi trên. Nếu nhìn xuống từ tầng không, con thuyền chắc giống như lục địa tí hon hoặc phiến đá nhỏ xíu trôi trên vùng biển xanh ngăn ngắt.
Đứa trẻ tuột khỏi tay mẹ, trượt xuống lòng thuyền, nằm sấp dưới chân những người đàn ông. Trông nó hệt như con búp bê hỏng bị vứt. Mẹ của nó không hề nhìn xuống hay có bất cứ cử động nào. Mẹ Guleed với tay qua, nhấc đứa trẻ lên và ôm vào lòng. Chị gỡ khăn trùm đầu xuống, đắp cho nó. “Ngủ đi cháu”, chị nói nhỏ.
“Giá mà mình cũng có thể ngủ”, Guleed lẩm bẩm. “Ước gì chợp mắt được một lần”, cậu tiếp tục và lặp đi lặp lại mấy lần. Cơ thể cậu lắc lư. Cậu muốn ngủ nhưng lại sợ thiếp đi. Cứ mỗi lần như thể vừa mất ý thức trong chốc lát trôi qua, cậu lại nhắc lại câu “ước gì ngủ được” và nhận ra mình vẫn thức. Mẹ Guleed giơ tay quàng qua vai cậu, giữ con đỡ chao đảo.
“Thành công rồi”, người đàn ông mà họ gọi là “cò di cư” đứng dậy hét lên. Hắn ta tóm chân đứa trẻ và giật nó ra khỏi mẹ Guleed. Chị giằng lại, bị hắn dí súng vào thắt lưng nên đành buông ra. Xách chân đứa trẻ lủng lẳng trên tay, hắn bước lên đầu thuyền, quăng nó xuống. Biển vẫn mở rộng, không động tĩnh. Những gợn sóng nhỏ nhẹ gần như phẳng lặng, nhìn hệt như sóng tim của bệnh nhân hấp hối trên màn hình máy theo dõi. “A… a… Muhajirun! Ôi, Đất Hứa!”, hắn dang rộng hai tay và gào to.
“Chính là đây, tao đã mang chúng mày đến Canaan rồi này”, hắn quay mặt lại, đối diện với mọi người trên thuyền và hò hét tiếp. Trong miệng hắn, ánh hoàng kim lóe lên từ chiếc răng bọc vàng. “Tao chỉ có nghĩa vụ đưa chúng mày đến đây thôi. Giờ thì nhảy xuống đi. Cầu trời cho biển sẽ tách đôi giúp mấy kẻ không biết bơi”.
Có người cầu nguyện. Có người chống đối. Có người đề nghị trả thêm tiền. Hắn chĩa vũ khí vào tất cả. Mọi người nhìn ra biển và nhìn khẩu súng. Họ phải chọn một trong hai.
*
Một buổi sáng tháng 1/2016, mẹ Guleed gọi cho tay trung gian đưa người di cư từ Kenya và Somalia đến châu Âu - Mukhallas. Họ gặp mặt bên ngoài căn lều ở tạm của chị tại khu 4, trại tị nạn Dadaab, Garissa, Đông Bắc Kenya. Chị rót trà, mời y uống. Vừa lúc đó, 2 cậu bé ở đâu chạy tới và một trong số đó là Guleed. Chúng vừa chơi đá bóng xong, mặt mũi đứa nào cũng lấm lem còn da tay thì nhăn nheo, nhợt nhạt.
“Mấy cái thằng quỷ này! Mẹ đã bảo là cấm được bén mảng tới cái ao bẩn thỉu đó bao nhiêu lần rồi? Không đứa nào biết nghe lời à?”, chị quát.
“Con thề với mẹ là con không có nhảy xuống bơi. Con chỉ đứng trên bờ, rửa mồ hôi thôi”, Guleed cãi cự. Chị biết, Guleed nói dối. Lần nào cũng vậy, cứ khi trời vừa mưa xong là không ai có thể ngăn nổi đám trẻ con nhảy xuống các ao, vũng chứa nước mưa của những nhà chăn nuôi gia súc. Suốt mùa mưa, chị luôn thấp thỏm sợ Guleed chết đuối.
“Thằng bé mấy tuổi rồi”, Mukhallas hỏi, hất mặt về phía Guleed. Môi y nhếch lên, để lộ hàm răng ám màu khói thuốc đen xỉn.
“Mười lăm”, chị trả lời.
“Nhỏ quá”.
“Thằng bé giỏi lắm đấy. Nó có năng khiếu về bóng đá”, chị khoe. “Ngoài bóng đá ra, nó chẳng quan tâm bất cứ thứ gì. Những giải thưởng về bóng đá mà nó nhận được đủ treo từ chân lên đỉnh cái lều này luôn. Đến cả ngủ mơ, nó cũng lảm nhảm về bóng đá”.
“Sẽ thật đáng tiếc nếu để tài năng đó phí phạm trong cái lều này nhỉ?”, y hớp ngụm trà. “Giống như tôi. Giống như rất nhiều người khác”.
“Thằng bé mơ mộng lắm. Nó ước được chơi cho Liverpool hoặc đội bóng nước ngoài nổi tiếng khác. Trong mắt nó, chẳng có bức tường hay rào cản nào cả. Nó sẽ không cam chịu sống ở nơi này”.
“Nào ai biết tương lai sẽ ra sao”, y nói. “Có điều, hình như các nhà chức trách Kenya và Cao ủy Liên Hợp Quốc về Người Tị Nạn đang định giải tán và đóng cửa trại tị nạn đấy. Những người nghe được tin đều cố đút lót để được đưa đi trước, họ đang chen chúc nhau trên xe đến Somalia kìa”.
“Tôi không có người nhà ở Somalia”, chị tiếp chuyện. “Chồng tôi đã chết ở đây. Vì xích mích gia đình vô bổ. Chúng tôi thậm chí còn chưa sống với nhau được tròn ba tháng”.
“Người Somalia là loài rắn nhầm lẫn đuôi của mình với đuôi của loài khác mà tự cắn ăn”, y ra vẻ cảm thông. “Tôi biết”, chị trả lời rồi ngồi im. Cả hai không nói gì một lúc lâu.
“Anh biết đấy, tôi có thể tiếp tục sống trong thị trấn khô hạn, tồi tàn này”, chị phá vỡ sự im lặng. “Tôi không ngại bị hạn chế, thiếu thốn tiền bạc, không có nhà vệ sinh hoặc phải làm người giúp việc cho nhà khác. Tôi cũng chẳng ngán bị biến thành kẻ vô gia cư. Tôi có thể đứng xếp hàng cả tuần trong cái nóng chỉ để xin một cốc ngô và một muỗng muối. Dù có bị tình nghi hay đổ lỗi về tội mà mình không hề làm, tôi không quan tâm. Có thành tù nhân hay thậm chí là người ngoài hành tinh, tôi cũng chẳng ngại. Chỉ cần được sống, tôi sẵn sàng chấp nhận tất thảy”. Vừa nói, chị vừa nhìn thẳng vào Mukhallas. Đôi mắt chị như tỏa nhiệt, phừng phừng khí thế. “Nhưng, tôi không muốn con mình cũng phải khổ sở như thế”.
“Chỉ cần bỏ ra vài nghìn đô thôi, rồi cả chị lẫn thằng bé đều có thể đến Ý, Thụy Điển, Đức hoặc bất cứ nơi nào khác tốt đẹp. Chúng tôi đảm bảo sẽ đưa cả 2 tới châu Âu an toàn”.
“Đừng nghĩ tôi là ả ngu!”, chị nhếch mép cười khinh. “Tôi biết di cư bằng thuyền rủi ro như thế nào. Nó chẳng khác gì tự sát. Đó không phải là việc nên thử, đặc biệt là với phụ nữ và trẻ con. Dù thế, tôi sẵn sàng thử thách, miễn sao tương lai tốt đẹp hơn bây giờ. Vì con trai, có phải nhảy vào địa ngục tôi cũng cam”.
Chị đã có sẵn một khoản tiền nhỏ nhờ may vá và tiết kiệm trong thời gian sống trong trại tị nạn. Ngoài ra, chị cũng vay mượn được chút đỉnh. Một tháng sau, chị có đủ tiền và quyết định di cư.
*
Quay lại hiện tại, biển đang vẫy gọi những người trên thuyền. Tuy bề ngoài nó trong xanh và êm dịu, nhưng bên dưới chắc chắn chỉ toàn tàn ác. Không gian im ắng tới nghẹt thở, người này nhìn người kia rồi nhìn lên bầu trời. Họ trông chờ một dấu hiệu, một câu trả lời hoặc bất cứ động tĩnh gì. Sau một hồi, người này nối tiếp người kia nhảy xuống. Cuối cùng, chỉ còn gã “cò di cư”, Guleed và mẹ. Chị nhìn những người dưới nước đang miệt mài bơi với sải tay mệt mỏi, vừa cố chống chọi lại trọng lực vừa gắng gượng hướng về phía trước. Những ngày qua, bụng họ chỉ toàn nước biển và bây giờ, phổi họ dễ cũng đang bị nước biển lạnh lẽo tràn vào. Chị có cảm giác, vị mặn chát của biển đang lan trên lưỡi và chảy xuống vòm họng. Hình như, ngay cả nước biển lạnh ngắt cũng đã vây bọc quanh người. Đứng dậy, chị ôm Guleed. “Mẹ xin lỗi vì đã khiến con buồn. Con hãy tha thứ cho mẹ nhé!”, chị nói và Guleed bối rối thấy rõ.
“Con đã quên mất cảm giác đứng trên đất liền là thế nào mất rồi”, Guleed nghẹn ngào.
“Cảm giác thế nào ấy à?”, chị nhìn phía bờ. “Thì chắc là như ở nhà vậy. Con sẽ sớm cảm nhận lại được ngay thôi. Con bơi được mà, phải không nào?”, chị nói như thì thầm. Buông tay khỏi người Guleed, chị đưa lên ôm mặt cậu, hôn cả hai bên má và nở nụ cười. Đôi mắt của chị híp lại, lộ khóe đầy nếp nhăn.
Chị quay đầu, đối diện gã “cò di cư” và nhìn vào khẩu súng trên tay hắn. Dù có nhắm chặt mắt, chị vẫn thấy hình ảnh những gã như hắn ở Sahara. Chị thậm chí chưa xóa được cảm giác bàn tay thô ráp của họ mài mòn da thịt mình. Mồ hôi chảy trên mặt họ, nhỏ xuống lưng. Tiếng họ gầm gừ trong gió. Mùi mốc của dây da đeo súng trường. Quay mặt ra biển, chị nhìn vào cái mênh mông của nó lần cuối. Đây là lần đầu tiên trong đời, chị phải bơi.
Mặt trời đã lặn, hoàng hôn đỏ thẫm như bức tranh của Raphael. Chị đứng yên, đôi mắt kiên định nhìn vào họng súng như thể thách thức cái chết và thất bại. Hóa ra, trước cái chết, chị cũng như bao người phải sụp xuống phục tùng.
*
Khi cuộc hành trình bắt đầu, Guleed và mẹ ngồi trên chiếc Nissan Caravan 14 chỗ cùng 15 người khác, đa số là người Somalia và Ethiopia. Họ từ Nairobi băng qua Thung lũng Great Rift và tới Nam Sudan. Xuống Juba (Sudan), họ chuyển sang xe tải chở tới Thủ đô Khartoum, tiếp đến lại lên đường đến Sahara. Chiếc xe chở họ tới Sahara chạy như điên, trong thùng xe có gắn thêm thanh gỗ để người ngồi nắm cho khỏi bị ngã.
Sahara hệt như mảnh giấy màu cam rộng vô hạn, gió xóa mất đường và tạo nên những ngọn đồi. Chiếc xe tải lướt ào ào, tung bụi mù mịt. Guleed liên tục thấy khát và đói, toàn thân đau nhức, rã rời. Cậu không kêu ca, vì phải mạnh mẽ để mẹ không lo lắng. Chỉ cần đưa mẹ đến đích an toàn, cậu sẵn sàng chiến đấu với mọi thứ. Và, khi hai mẹ con tới châu Âu, cậu sẽ trở thành cầu thủ chuyên nghiệp như khát khao. Ở quê nhà, cậu đã thắng tất cả các giải đấu, giành hết các danh hiệu. Chỉ vì tị nạn, cậu mới mất cơ hội vào đội tuyển quốc gia. Đến châu Âu rồi, cậu sẽ tham gia ngay vào học viện bóng đá và biểu hiện thật tốt. Rất nhanh thôi, cậu sẽ được chơi ở các giải đấu hàng đầu. Cậu sẽ đầu quân cho Liverpool F.C. Khi nổi tiếng và giàu có, cậu sẽ về quê, xây dựng học viện giúp đỡ những cầu thủ trẻ triển vọng.
Sau 6 đêm chạy trên sa mạc, họ tới Nam Libya, dừng chân tại làng Al-Qatron. Nguồn thực phẩm đã cạn kiệt, mọi người cố cầm hơi bằng chút nước và bánh mì khô. Mấy đêm đã trôi qua mà những tay trung gian vẫn chưa xuất hiện. Ai nấy ngờ vực bị lừa, nhưng cũng không thể làm gì khác ngoài chờ đợi. Sống là nỗ lực trì hoãn cái chết. Đối với họ, sự sống hình như đang bị cắt thành lát và nhét vào miệng, buộc phải nuốt mỗi ngày. Những gã trung gian đã xuất hiện. Ai nấy nhẹ nhõm hẳn đi. Họ bị nhồi lên thùng xe tải có đục lỗ thông gió, bên trong tối thầm và nóng bức, tiếp tục vượt Sahara tới Bắc Tripoli. Xuống xe, quần áo người nào cũng đẫm mồ hôi. Họ được dẫn vào khu nhà sang trọng, quét vôi trắng và lại phải chờ. Đôi chân người nào cũng loạng choạng, mắt thì trũng sâu. Chiếc xe tiếp theo có mặt, kẻ trung gian cầm tờ giấy ghi tên người và bắt đầu đọc.
Guleed và mẹ cùng 2 phụ nữ khác không có tên trong danh sách. Họ nhận được thông báo, phải dừng chân tại đây vì gã trung gian ở Kenya chỉ trả tiền đủ tới Tripoli. Nếu muốn vượt biển sang châu Âu, họ cần liên hệ với gia đình để sắp xếp chuyển khoản thêm, nếu không sẽ bị trừng phạt.
Ba ngày sau, vì không có tiền, Guleed bị lôi tới góc hẻo lánh của khu nhà, nơi có một số đàn ông và nam thiếu niên đang bị xích chân vào cột sắt. Tất cả họ đều trần truồng. Guleed cũng bị lột sạch, xích chân vào cột sắt khác. Da cậu tì vào bề mặt kim loại nóng, cơn khát mỗi lúc một dữ dội hơn. Không khí đặc quánh mùi nước tiểu và máu. Năm gã đàn ông to cao đánh vào lưng họ, ép uống nước mặn. Chúng vừa hút thuốc vừa cười hô hố, át cả tiếng khóc của người bị bạo hành.
Sau khi đánh đập Guleed, chúng lôi mẹ cậu và 2 người phụ nữ kia vào trong nhà. Guleed nghe thấy tiếng mẹ kêu khóc thảm thiết vì bị cưỡng bức. Tiếng kêu khóc ấy đâm thẳng vào cậu, tới tận nơi sâu thẳm chưa từng biết. Nghe nó khản đặc, bất lực, vô vọng hệt như tiếng kêu cứu của người chết đuối trên biển xa. Guleed ước gì nó ngừng lại, nhưng nó cứ tiếp tục. Cậu không thể bịt được tai. Cơn gió xà sát mặt đất, tung bụi cát lên lấp lánh. Trông nó uyển chuyển, thanh tao như thể đang khiêu vũ theo bản nhạc êm dịu của Beethoven giữa đêm trăng thanh. Thiên nhiên nhảy múa trong giai điệu bi kịch của con người.
Khi mẹ Guleed trở ra, chị xiêu vẹo và đờ đẫn như cái xác không hồn. Người chị loang lổ máu. Guleed nhìn vào mắt mẹ và ánh nhìn vô hồn đáp trả của chị cứa đứt ruột gan cậu. “Họ sẽ bị bán vào nhà thổ làm điếm”, gã đàn ông đứng gần Guleed nói. “Cho đến khi kiếm đủ tiền để trả phí thuyền di cư”.
Guleed nhìn theo bóng mẹ và 2 người phụ nữ bị giải đi. Cậu cảm thấy đã khiến mẹ thất vọng, vì không cứu được mẹ. Bằng tất cả sức mạnh, cậu lao về phía trước. Sợi xích sắt lôi cậu trở lại. Chân 3 người phụ nữ thoáng dừng rồi bước tiếp. Hai tháng sau, họ mới trở lại, cơ thể người nào cũng ốm tong ốm teo đến mức gió thổi bay. Kể từ lúc đấy, Guleed không thể ngủ. Cậu cứ ngồi nghiêng ngả, miệng lẩm bẩm “Chính con đã hại mẹ”.
*
Bây giờ, trước mắt Guleed là những ngọn đèn màu cam xán lạn. Cậu nhảy xuống biển. Mặc kệ cơ thể yếu ớt, cậu bơi, được sóng nâng lên. Thân thể cậu nhẹ tênh, dường như đã bị hành trình di cư rút cạn hết từ thể trọng đến năng lượng, hy vọng, ký ức. Cậu không nhìn về phía sau, nơi có những người đàn ông đã chết đuối. Cậu nhìn tới phía bờ và thấy một chiếc thuyền đánh cá đang đến.
Những ngọn đèn màu cam ngày càng gần. Hòn đảo Lampedusa (Ý) có màu trắng, những vách đá của nó thì màu nâu. Trong mắt Guleed, nó giống như con cá sấu đá khổng lồ với cái đuôi nằm dài trên mặt nước. Người người đi dạo trên bãi biển nhưng Guleed chỉ thấy như đám nhện nhốn nháo chạy trên bãi cát. Sóng biển hất cậu vào bờ. Cơ thể cậu nằm ngay phần bụng của con cá sấu đá và lũ nhện nhào tới. Cạnh cậu, thi thể một phụ nữ bị hất lên. Guleed không kịp nhận ra, người đó chính là mẹ mình.
Vũ Thị Huế dịch
(TCSH405/11-2022)
-----------
Theo Magunga
https://www.magunga.com/for-whom-the-light-shines-by-aress-mohamed/
AZIt NêxinNgày xưa, nhà vua ở một nước nọ có một kho bạc. Nghe đồn rằng trong kho bạc của nhà vua cất giữ một báu vật vô giá duy nhất của nước đó. Mọi người đều tự hào về báu vật mà tổ tiên đã để lại cho họ. “Mặc dầu chúng ta chẳng có gì cả, nhưng tổ tiên đã để cho chúng ta giữ một vật quý”, họ thường tự hào như vậy mà quên đi cảnh túng thiếu của mình.
AZIT NÊXIN (1915 - 1995)Một con chó chạy xồng xộc vào tòa báo "Tin tức đô thành”.
Nhà văn Mỹ Carson Mc Cullers sinh 1917. Các tác phẩm chính của bà là: Trái tim là kẻ đi săn cô độc (1940), Thành viên của đám cưới (1946), Khúc ballad của quán cà phê buồn (1951), Ngọt như dưa chua và sạch như heo (1954)…
Kamala Das tên thật là Kamala Suraiyya, sinh ngày 31.3.1934 tại Punnayurkulam, quận Thrissur, thành phố Kerala, vùng tây nam Ấn Độ. Bà là nhà văn nữ nổi tiếng của Ấn Độ. Bà sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Malayalam. Bà sáng tác thơ và tiểu thuyết ngắn bằng tiếng Anh. Bà chủ yếu nổi tiếng trong thể loại truyện ngắn. Trong sự nghiệp sáng tác, bà đã có nhiều giải thưởng văn học, trong số đó là: Asian Poetry Prize, Kent Award for English Writing from Asian Countries, Asan World Prize, Ezhuthachan Award và một số giải thưởng khác nữa. Ngày 31 tháng Năm, 2009, bà mất tại bệnh viện thành phố Pune, Ấn Độ, thọ 75 tuổi.
HERTA MULLERHerta Mueller vừa được trao giải Nobel văn học 2009 vì đã mô tả cảnh tượng mất quyền sở hữu bằng một lối thơ cô đọng và một lối văn thẳng thắn. Truyện ngắn này rút từ tập truyện Nadirs (1982) là tác phẩm đầu tay của bà.
SHERMAN ALEXIENgay sau khi mất việc ở văn phòng giao dịch của người Anh điêng, Victor mới biết cha anh đã qua đời vì một cơn đau tim ở Phoenix, Arizoan. Đã mấy năm nay Victor không gặp cha, anh chỉ nói chuyện với ông qua điện thoại một hay hai lần gì đó, nhưng đó là một căn bệnh di truyền, có thực và xảy ra đột ngột như xương bị gãy vậy.
KOMATSU SAKYOKomatsu Sakyo sinh tại Osaka (Nhật Bản) (28/1/1931). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto, chuyên ngành Văn học Italia. Từ năm 1957 là phóng viên đài phát thanh Osaka và viết cho một số báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí “SF Magasines” tổ chức. Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Có bốn tiểu thuyết đã được dựng thành phim.
FRANK R- STOCKTONCách đây năm năm, một sự kiện kì lạ đã xảy đến với tôi. Cái biến cố này làm thay đổi cả cuộc đời tôi, cho nên tôi quyết định viết lại nó. mong rằng nó sẽ là bài học bổ ích cho những người lâm vào tình cảnh giống tôi.
MIKHAIN SÔLÔKHỐP Truyện ngắn Mùa xuân thanh bình đầu tiên đã về lại trên sông Đông sau những năm tháng chiến tranh. Vào cuối tháng Ba, những cơn gió ấm áp cũng đã thổi đến, và chỉ sau hai ngày tuyết cũng đã bắt đầu tan trên đôi bờ sông Đông. Khắp mọi ngả đường việc đi lại cũng vô cùng khó khăn.
KAHLIL GIBRANNguồn: A Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng của Kahlil Gibran), Anthony Rizcallah Ferrris dịch từ tiếng Arập, Martin L. Wolf biên tập, Nxb Citadel Press, New York, HK, 1951.
ROBERT ZACKS (ANH)Nhân ngày quốc tế phụ nữ, tôi và anh tôi bàn nhau mua quà tặng mẹ. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi thực hiện điều này.
GUY DE MAUPASSANTÔng Marrande, người nổi tiếng và lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học nghiên cứu khoa học tự nhiên đến thăm và chứng kiến, trong vòng một giờ đồng hồ, một trong những bệnh nhân tại nhà điều trị do ông lãnh đạo.
GUY DE MAUPASSANTGia đình Creightons rất tự hào về cậu con trai của họ, Frank. Khi Frank học đại học xa nhà, họ rất nhớ anh ấy. Nhưng rồi anh ấy gửi thư về, và rồi cuối tuần họ lại được gặp nhau.
JAMAICA KINCAIDNhà văn hậu hiện đại Anh J. Kincaid sinh năm 1949. Mười sáu tuổi, bà đến New York làm quản gia và giữ trẻ. Bà tự học là chính. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của bà: “Giữa dòng sông” (1984) nhận được giải thưởng của viện hàn lâm Văn chương và Nghệ thuật Mỹ; còn các tiểu thuyết “Annie” (1985), “Lucky” (1990) được đánh giá cao.
SAM GREENLEE (MỸ)Sam Greenlee sinh tại Chicago, nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết.Ông cũng đóng góp nhiều truyện ngắn, bài báo trong “Thế giới da màu” (Black World); và xem như là bộ phận không thể tách rời trong văn nghiệp, bởi ông là nhà văn da màu. Tuy nhiều truyện ngắn của ông vẫn được thể hiện theo lối truyền thống, nghĩa là vào cửa nào ra cửa ấy; nhưng cái cách mở rộng câu chuyện ở giữa truyện, bằng lối kể gần gũi nhiều kinh nghiệm; đã gây được sự thú vị. Đọc “Sonny không buồn” qua bản dịch, dĩ nhiên, khó thấy được cái hay trong lối kể, bởi nếp nghĩ và văn hoá rất khác nhau; nhiều từ-câu-đoạn không tìm được sự tương đương trong tiếng Việt. Cho nên đọc truyện này, chỉ có thể dừng lại ở mức, cùng theo dõi những diễn tiến bên ngoài cũng như sự tưởng tượng bên trong của Sonny về môn bóng rổ, cả hai như một và được kể cùng một lúc.
DƯƠNG UÝ NHIÊN (Trung Quốc)Tôi không thể thay đổi được thói quen gần gũi với cô ấy nên đành trốn chạy ra nước ngoài. Tôi đã gặp được em. Khi đăng tác phẩm “Không thể chia lìa” trên một tạp chí xa tít tắp và dùng bút danh, tôi cho rằng mình không một chút sơ hở. Tôi nhận tiền nhuận bút và mua hai chai rượu quý nồng độ cao trên đường trở về. Tôi muốn nói với em điều gì đó nhân kỷ niệm ngày cưới.
S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.
WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?
SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.
SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar trong một gia đình nông dân thuộc tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.