Về với chị

16:36 27/05/2009
XUÂN ĐÀI 1. Mỗi lần từ quê trở về Sài Gòn, sống bên chồng và hai đứa con, tôi không nguôi nhớ đến chị. Năm nay chị đã ngoài bốn mươi, không chồng, không con, lủi thủi ra vào trong ngôi nhà một gian hai chái. Ngôi nhà vừa được xây dựng cách đây gần ba năm bằng số tiền chị tằn tiện, chắt bóp mười mấy năm và tiền vợ chồng tôi phụ giúp chút đỉnh. Vài ba năm, vợ chồng con cái chúng tôi mới về thăm chị một lần. Chị mừng, chị vui, trò chuyện với các cháu suốt ngày. Chị quấn quýt lũ trẻ, lũ trẻ cũng quấn quýt chị.

Có lần bà Hai lối xóm, nói với tôi: Vợ chồng cô trở vào Sài Gòn, chị ấy lại buồn. Sao vợ chồng cô không đưa chị vào trong đó sống chung, có chị có em, tối lửa tắt đèn có nhau... Tôi gật đầu, đưa đẩy vài câu cho bà vui lòng. Là người ngoài cuộc, bà Hai đâu biết, tôi đã năn nỉ nhiều lần nhưng chị không chịu. Chị đưa ra vô vàn lý do để ở lại quê hương. Chị bảo nhà có hai chị em, nếu chị cũng bỏ xứ mà đi thì mồ mả ông bà, cha mẹ, ai chăm sóc. Có lần tôi bàn với chị nếu chị bằng lòng vào Sài Gòn sinh sống với vợ chồng chúng tôi, chị em mình sẽ cải táng mồ mả, thiêu hài cốt đưa vào chùa thờ phụng. Chị la tôi, quê ta không có phong tục như vậy, cải mả là đưa hài cốt vào tiểu sành rồi tìm miếng đất khác chôn cất và xây mộ. Đất cát mới cũng là đất cát ở trong làng. Em biết đó, quê mình có sông có núi. Dân làng mình, cải mả cho ai, bà con đều đưa sang núi, không tốn tiền mua đất, rồi xây lăng mộ. Tôi hỏi chị mỗi ngôi mộ xây hết bao nhiêu tiền? Chị bảo: chơi sang thì năm bảy triệu, ít tiền thì một hai triệu cũng xây được. Đá ở trên núi thiếu gì, khỏi phải mua gạch.

Hôm sau nằm bên chị, tôi lại rủ rỉ, chị không bằng lòng hoả táng đưa tro cốt lên chùa, thì vào Sài Gòn em sẽ mua đất ở ngoại ô rồi đưa hài cốt ông bà cha mẹ vào trong đó chôn cất, xây thật đẹp. Chị vào sinh sống với vợ chồng chúng em, thế là chị em mình được ở gần các cụ. Chị nằm lặng im một lúc, khe khẽ thở dài, tôi ngỡ chị đã xuôi theo ý kiến tôi. Đột nhiên chị đẩy tôi ra nằm sát vào tường, nói rành rọt từng tiếng một:

- Tao không đi đâu hết, dì dượng và các cháu cứ ở Sài Gòn, lâu lâu về thăm chị là tốt rồi. Chị có ốm đau, trái nắng trở trời đã có bà con lối xóm chăm sóc. Dân làng mình sống nhân ái, chẳng ai vô tình với những người sống cô đơn như chị đâu.

Tôi thua. Vợ chồng con cái lại kéo nhau vào Sài Gòn. Lần đó, phải thuyết phục mãi chị mới đồng ý để tôi mắc cho chị một cái điện thoại cho tiện việc chị em liên lạc với nhau.

2.
Mẹ tôi mất năm tôi lên bốn. Chị hơn tôi ba tuổi. Cha tôi gà trống nuôi con. Hai chị em tôi thương cha vất vả làm ruộng làm vườn, đội nắng đội mưa. Những ngày nông nhàn, tháng ba ngày tám, cha lại khăn gói ra thị xã kiếm việc làm thêm. Chị em tôi hỏi cha ra ngoài đó làm những gì, cha chỉ cười đôn hậu: các con biết làm chi cho nhọc óc, miễn sao, cha kiếm được tiền gởi về cho hai chị em ăn học. Các con học giỏi là cha vui, cha mừng, và dưới suối vàng vong linh mẹ các con cũng thanh thoát. Những chú bác, anh chị trong làng, giống cha tôi, kéo nhau ra thị xã làm thuê, cho hai chị em tôi biết ra ngoài đó cha tôi làm đủ việc. Ai thuê gì làm nấy. Khi thì cha làm công cho ông chủ người Tàu, đẩy xe đi thu gom phế liệu, nghề này phải có vốn mới tự làm được. Khi thì cha làm mướn cho sở công chính, nghe nói cũng phải thông qua các ông cò nhà thầu, chui xuống sâu dưới lòng thị xã móc cống... Vì hai đứa con gái mà cha vất vả. Chị em tôi thương cha, bảo ban nhau học hành, mỗi năm lên một lớp. Chị tôi học giỏi hơn tôi nhiều. Kỳ thi vào lớp mười, chị tôi là thủ khoa của huyện, đạt điểm số gần như tối đa các môn. Nhờ thành tích đó, huyện thưởng cho chị một cái xe đạp Trung Quốc. Tôi vừa được tiếng thơm vừa được đi ké xe đạp của chị.

Cuộc sống ngỡ như thuận buồm xuôi gió, hai chị em tôi cứ đà này sẽ có cơ hội vào đại học. Thế sự xoay vần không phải vậy. Một hôm trời chập tối, chú Thức người làng bên đến báo tin cha tôi sốt nặng, ngày đêm liên tục lên cơn ho. Anh em người làng ở cùng nhà trọ ngoài thị xã, thay phiên nhau chăm sóc, bệnh không thuyên giảm nên đã đưa cha tôi vào bệnh viện tỉnh. Chú Thức bảo hai chị em phải đến bệnh viện ngay. Dù lúc đó trời khuya, mưa rả rích từ chiều, hai chị em vẫn khăn gói chở nhau bằng xe đạp ra huyện, lên tỉnh. Lúc đến được bệnh viện, trời đã xế chiều ngày hôm sau.

Cha tôi nằm bệnh viện gần một tháng, thuốc men chạy chữa bằng tiền bán một mẫu ruộng, đồ đạc trong nhà, kể cả chiếc xe đạp phần thưởng của chị. Vậy mà vẫn không qua khỏi. Cha đã về với mẹ, bỏ lại hai đứa con côi cút bơ vơ giữa làng. Lúc đó, chị tôi đang học lớp mười một và tôi học lớp tám. Kinh tế gia đình kiệt quệ, chị đành bỏ học, thay cha tôi nuôi tôi. Lại giống cha, chị lo ruộng vườn, những tháng nông nhàn, chị ra thị xã kiếm việc làm thêm. Tôi không bao giờ quên được những kỷ niệm tuổi thơ của hai chị em. Một ngày cuối đông lạnh buốt, chị ôm tôi vào lòng, thủ thỉ:

- Em phải học giỏi để vào được đại học. Chị phải bỏ ngang giữa chừng là việc bất đắc dĩ. Vì ông bà tổ tiên, vì lòng hiếu học của cả dòng họ, vì cha vì mẹ, vì cả chị nữa, em phải học giỏi. Đừng sợ chị vất vả, chị không cần ai thương hại.

Đêm khuya thanh vắng, gian phòng tối đen không nhìn rõ mặt người, nghe giọng nói tôi hình dung chị như một bà già.

Trước đây, chị là hoa khôi của xã, nếu không nói là của tỉnh, nhiều chàng trai đeo đuổi chị, chỉ vì vướng đứa em gái là tôi mà chị từ chối hết, chấp nhận ở vậy nuôi em ăn học.

3.
Dù không nói ra, tôi biết anh Thanh, chồng tôi, cũng nghĩ ngợi, thương cảm, quý trọng, muốn cho người chị vợ mình có một cuộc sống yên ổn, hạnh phúc. Gia đình chồng tôi, hai cụ còn khoẻ mạnh, có năm anh chị em, hai trai ba gái, anh là con út. Thường thường, chủ nhật cuối tháng, hai vợ chồng lại đưa con cái về quê nội ở vùng sông nước đồng bằng sông Cửu Long.

Biết hoàn cảnh hai chị em tôi mồ côi, những người trong gia tộc bên nội vừa thương cảm vừa ái ngại. Chắc chồng tôi chuyện trò sao đó mà bố mẹ chồng và nhiều người bà con đều biết vì mồ mả ông bà, cha mẹ, mà chị tôi không chịu vào Sài Gòn ở với em gái.

Có lần trong lúc ngồi ăn cơm, tôi nửa thật nửa đùa, cũng là cách thăm dò, tôi hỏi:

- Nếu bây giờ vợ chồng chúng con chuyển về quê sinh sống, ba má có bằng lòng không?

Ba chồng tôi, cụng ly, uống hết rượu, cười khà khà:

- Ở đâu chẳng là đất nước mình, vợ chồng tụi bây muốn sinh sống ở đâu, ba má cũng giơ hai tay tán thành.

Má chồng tôi, suốt bữa ăn chỉ kể chuyện đồng áng, con cá con tôm, chứ không hề bắt vào chuyện mà tôi đề cập.

Sau này, mỗi lần về quê nội, tôi không bao giờ gợi tới chuyện này nữa, chắc chồng tôi cũng nghĩ đó là chuyện tầm phào. Tôi đã lầm. Đêm đó, cách ngày tôi thăm dò mọi người có dễ hơn một năm, khuya lắm rồi, anh lay lay vào vai tôi:

- Hoà này, anh muốn nói chuyện này với em. Anh đã tính kỹ rồi, cũng đã liên hệ ra ngoài đó, sở giao thông công chính quê em, đồng ý nhận cả hai vợ chồng mình.

Tôi như không tin vào tai mình, gặng lại:

- Anh nói thật đấy à?

- Nói thiệt chứ đâu giỡn chơi.

- Việc này anh đã bàn kỹ với ba má và các anh chị chưa?

- Việc đại sự, anh đâu dám quyết định một mình. Ba má lúc đầu cũng băn khoăn, nhưng rồi thấy các anh các chị xúm vào phân tích, lời hơn lẽ thiệt là để vợ chồng mình ra quê em là hợp đạo lý. Ba má còn những bốn đứa con bao quanh cơ mà.

Lòng tôi vui vui song giả đò trách cứ anh:

- Việc quan trọng như vậy, anh tự ý làm một mình, sao không bàn bạc với em từ đầu.

Anh ngồi dậy, bật đèn, cười phá lên:

- Bộ em cho anh là đứa cù lần, không đọc được ý nghĩ của em mấy năm qua sao?

Anh bật lửa châm thuốc, rít từng hơi dài, nhả khói lên trần nhà. Tôi ngồi lặng im, ôm gối, dựa vào thành giường. Xưa nay tôi cứ ngỡ mình đã hiểu biết về chồng, bây giờ tôi mới biết mình là người nông cạn, không biết hết những suy nghĩ sâu thẳm trong anh. Anh thương tôi, thương hoàn cảnh xa cách của chị em tôi, sẵn sàng xa quê hương, cha mẹ, anh chị em ruột thịt, chấp nhận chuyển đến vùng quê miền Trung xa lắc...

Chưa đầy một tháng, chúng tôi đi lại như con thoi giữa quê tôi và Sài Gòn, lo thủ tục chuyển công tác, lo chuyển trường cho hai cháu, lo sắp xếp chỗ ở và lo thủ tục bán nhà, ngôi nhà mà hai vợ chồng dành dụm trong nhiều năm mới mua được.

Chị ơi, người chị thân ái ở quê nhà xa ngái, chúng em sắp về với chị, chị có bất ngờ không?

4.
Tôi gặp vợ chồng cô Hoà ở thị xã. Cô người cùng làng với tôi. Tôi là thế hệ đàn anh, lớn lên lang bạt kiếm ăn ở Thái Nguyên, Lạng Sơn, gần chục năm nay định cư ở Hà Nội. Cô bay nhảy trong Nam, cuộc sống tưởng đã ổn định, đâu ngờ...

Cô cười:

- Chắc anh cho em là đứa dở hơi...

- Dở hơi thì không, nhưng làm như cô thì hơi... bị hiếm.

- Cả làng mình, hoàn cảnh như hai chị em chúng em chỉ có một. Giả dụ, có trường hợp giống như vậy, cũng có thể họ tính toán như em, cũng có thể bà chị theo cô em vào Sài Gòn. Tính nết con người có ai giống ai đâu, phải không anh?

 Chúng tôi ngồi với nhau trong quán giải khát có dễ vài tiếng đồng hồ. Anh Thanh, chồng Hoà chỉ cười, lắng nghe hai người cùng quê trò chuyện tầm phào với nhau bằng cái giọng miền Trung nặng trịch. Trước lúc chia tay, Hoà đưa ra một thông tin quan trọng.

- Chị em sắp lấy chồng đó anh!

- Người làm mai, chắc là cô. Giỏi quá.

Anh Thanh đỡ lời vợ:

- Bà mai số dách đó anh. Chồng chị em người cùng quê với em. Anh ấy là nông dân, goá vợ, có một con gái năm nay mười bảy, cũng là dân cày như ba.

- Lấy xong chắc chị cô Hoà theo chồng vào Nam. Và cô chú lại trở vào Sài Gòn?

- Nếu vậy, chị Hai đâu có chịu, Hoà cũng đâu có chịu. Anh ấy sẽ về quê vợ. Dân miệt vườn mà anh, ở đâu thì cũng con trâu cái cày... Quê mình vui quá anh ơi. Quê mình, phát ra từ miệng anh Thanh, tôi hiểu là quê cô Hoà, quê của cả tôi nữa đó...

X.Đ
(174/08-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN TOÀN Nhà có hai chị em. Chị như chim công, nó chẳng bằng cú. Đấng tạo hóa sau khi tạo tác một sinh vật xinh đẹp như chị chắc phải lấy làm mãn nguyện sung sướng. Rồi trong lúc quá chén ngài đã vô tình tạc nên một sinh vật dị hình nữa, là nó.

  • PHẠM PHƯƠNG Thằng bé đứng bên sông. Nó thấy màu đỏ ửng phía chân trời, nơi có hàng thùy dương và con đường đất ẩm. Đứa con gái nhà ai, trong làn khói lam chiều rơm đốt giữa mùa, mặc một bộ đồ cỏ úa, đang tha thẩn nhặt cỏ gà.

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH Khi về già người ta thường hoài niệm về tuổi trẻ và thích ngồi đợi những buổi sáng. Bởi vì đêm tối lạnh lẽo và âm u làm sao!

  • DẠ NGÂN Sau giấc ngủ trưa, hai chiếc gối kê cao trên đầu giường, tôi bắt đầu buổi làm việc tại nhà như vậy. Đó là sự nhân nhượng của toà báo với những biên tập viên cao niên và tôi, cũng như nhiều đồng lứa trong giới, tận hưởng đặc quyền đó bằng trách nhiệm tự giác thường trực.

  • NHẤT LÂM Tết êm đềm trôi hết tháng Giêng, mà bầu trời thung lũng Mu Lu còn khá lạnh. Chập tối, hơi đá từ dãy núi Ta Chan phả ra, sương buông màn màu sữa đục.

  • HUY PHƯƠNG Đã nghe thấy tiếng gió rì rào, như từng đợt sóng nhỏ tràn qua mái nhà. Trời trở rét… Chả trách mà tối hôm qua, cánh cửa kính cứ hết sập lại mở, rập rình mấy lần làm anh mất ngủ.

  • LÊ VĂN… Rồi cũng xong … Anh lơ xe nhảy lên cuối cùng, la lớn:- Tới đi chú Tám ơi!

  • QUỐC THÀNH - Xin người hoàn lại xiêm y cho ta - một thiếu nữ ngâm mình trong làn nước thơm khẩn khoản. - Mộng ba năm, bây giờ mới có, ta chỉ muốn nàng hứa một lời là được - chàng trai trẻ quay lưng về phía mặt hồ vòi vĩnh.

  • NGUYỄN THẾ TƯỜNG Sáng nay, ông Tổng biên tập gọi tôi tới bảo đi ngay dự lễ khánh thành một chiếc cầu. Tôi loáng quáng xách máy chạy ra xe, không kịp cả dặn vợ cắt cơm trưa.

  • L.T.S: Trần Duy Phiên, người thôn Thanh Thủy Chánh, huyện Hương Điền, Bình Trị Thiên, là một trong những cây bút truyện ngắn chủ chốt của chóm “Việt” - nhóm sáng tác trẻ trong phong trào đấu tranh chống Mỹ - ngụy xuất phát ở Huế trước đây.

  • DƯƠNG PHƯỚC THUNgôi nhà lợp phi-brô xi-măng rộng chừng ba chục thước vuông, nằm sát cổng ra vào xí nghiệp dệt, biệt lập ngoài khu sản xuất, núp dưới tán lá cây bàng, được xây từ ngày xí nghiệp xảy ra các vụ mất cắp vật tư.

  • LÊ CÔNG DOANHChuyến đò dừng lại ở bến cuối cùng khi mặt trời vừa khuất sau rặng tre bên kia sông. Hiếu nhảy lên bờ và bước đi trong cảm giác chòng chành bởi gần trọn một ngày phải ngồi bó chân trong khoang đò chật.

  • L.T.S: Tác giả Hoàng Nguyệt Xứ tên thật là Hoàng Trọng Định, từng in truyện và thơ trên Sông Hương và nhiều tạp chí văn nghệ khác. Tác phẩm của anh để lại dấu ấn trong dòng chảy văn học của Huế với những truyện ngắn đậm tính triết lý, văn phong ám gợi sâu xa.Truyện dưới đây được Sông Hương dàn trang lúc anh còn sống... trân trọng gửi tới bạn đọc; cũng là nén tâm nhang xin chia buồn cùng người thân của anh.

  • TRẦN THÙY MAINếu cuộc đời được hình dung như một con đường thỉnh thoảng lại băng qua ngã tư, ngã ba hay rẽ ngoặt thì trong đời tôi có hai khúc quanh lớn nhất.

  • THÙY ANHồi nhỏ, tôi có cái tật làm nớt. Hở một chút là nước mắt tuôn ra giọt ngắn giọt dài. Anh chị xúm lại chọc: “Lêu lêu, mu khóc móc kh… ruồi bu kiến đậu…”, nhưng mẹ thì không, chỉ an ủi dỗ dành.

  • TRẦN HỮU LỤCKhi từ biệt làng nổi trên sông, ông Ngự tưởng mình quên được chiếc bóng vật vờ trên sông nước, quên bốn mươi năm gắn bó với những vạn đò. Ông Ngự chỉ mang theo đứa con gái duy nhất và cái máy bơm nước hiệu Yama của Nhật Bản đến vùng đất mới.

  • NGUYỄN QUANG LẬPQuá nửa đời người anh chị mới gặp nhau. Âu đó cũng là chuyện thường tình. Sau hai mươi mốt phát đại bác vang trời báo tin ngày toàn thắng, có hàng ngàn cặp vợ chồng cách biệt hàng chục năm đã tìm lại nhau.

  • PHẠM NGỌC TÚYMột buổi chiều như bao buổi chiều khác, Kim ngồi ở bàn giấy với trang viết đang chi chít chữ. Tiếng chuông điện thoại kêu vang dòn dã vào một thời điểm không thích hợp; thầm mong người nào gọi lộn máy Kim uể oải nhấc ống nghe lên.

  • BẠCH LÊ QUANG(Người đàn bà gối giấc ngủ trên cánh tay của biển - Thơ LHL)