Về lại Quảng An

15:50 09/09/2008
ĐỖ KIM CUÔNG Câu chuyện của 27 năm về trước...

Trong căn hầm đất chật chội nồng nặc khói thuốc lá, ông tiểu đoàn trưởng KX có tên là N người nhỏ thó giọng miền núi Quảng Bình nói thật khó nghe. Ông giải thích cho tôi về nhiệm vụ đưa quân đánh về vùng sâu Quảng Điền. Nơi chúng tôi phải về đánh địch là ấp Thành Trung. Ở đây có lô cốt, ấp chiến lược và thường xuyên có lực lượng bảo an địch trấn giữ. Giọng ông tiểu đoàn trưởng khô, gẫy. Và những điều ông ta diễn giải cho tôi hiểu được biểu thị trên một tấm bản đồ vẽ bằng tay, có mũi tiến công của ta tô bằng chì đỏ. Các lô cốt, ụ súng, nơi phòng thủ của địch được vẽ bằng chì xanh. Con sông Bồ uốn lượn ngoằn ngoèo chạy bao quanh các làng của Phong Quảng cũng tô bằng màu xanh... Nếu người ngoài không rõ dễ lầm tưởng ông tiểu đoàn trưởng của tôi mới đi điều nghiên từ cứ điểm Thành Trung trở về đêm qua; ông đã nắm chắc từng tiểu đội địch, từng ụ hoả lực trong lòng bàn tay. Khi nói hăng say, bàn tay phải của ông luôn giơ lên hạ xuống. Bàn tay của ông có những ngón xương xẩu, lúc nào cũng lập loè đốm lửa thuốc lá. Thỉnh thoảng, ông ta lại ngước lên nhìn tôi và anh K – chính trị viên đại đội, hỏi: "Răng các đồng chí đã hiểu nhiệm vụ của đại đội 1 chưa hè? phải xây dựng quyết tâm cho bộ đội... Tấn công... nổi dậy".
Kỳ thực cả tôi, anh K và ông tiểu đoàn trưởng chưa một người nào về được với Thành Trung. Tôi là cán bộ của đại đội 2 được điều chuyển về đại đội 1 mới được có mấy ngày. Tôi chỉ biết một điều, từ nửa tháng nay, Tế – đại đội phó đại đội 1 đã cùng với cán bộ huyện Quảng Điền về bám căn cứ địch. Khi đại quân từ trên rừng về, Tế có nhiệm vụ báo cáo tình hình địch ở ấp Thành Trung và dẫn đường cho bộ đội tiếp cận mục tiêu.
Kể từ sau tết Mậu Thân – 1968, đây là lần thứ hai, bộ đội KX được lệnh của trên về đánh lớn ở đồng bằng Phong Quảng. Năm 1973, hiệp định Pari về Việt được ký kết. Mỹ rút quân. Tiểu đoàn X của tôi cùng với Trung đoàn 4 và một số đơn vị của Sư đoàn 325 đã có dịp đánh về đồng bằng trong chiến dịch "giành đất cắm cờ". Sau hơn nửa tháng đánh chống càn quyết liệt ở các xã Phong Điền, Quảng Điền, trước sức tấn công bao vây của quân ngụy chúng tôi đã được lệnh rút lên chiếm giữ các điểm cao dọc tuyến giáp ranh... Trở về đồng bằng Phong Quảng lần này, chúng tôi hiểu nhiệm vụ của mình là khuấy đảo vùng sau lưng địch, hỗ trợ cho đồng bào các thôn ấp nổi dậy. Quân nguỵ sẽ phải tập trung một lực lượng lớn để chống đỡ phía sau, tạo điều kiện cho các sư đoàn chủ lực 324, 325 phá vỡ tuyến phòng thủ của địch trải dài từ bắc sông Bồ tới sông Ô Lâu, Mỹ Chánh và dọc theo quốc lộ 1. Lệnh nổ súng cho toàn miền đã điểm. Tây Nguyên, bộ đội ta đã chuẩn bị tấn công Ban Mê Thuột.
Ngày 8/3/1974, ở căn cứ dưới chân đồi Đức Mẹ, trong lúc đại đội của tôi chuẩn bị những khâu cuối cùng để đêm mai xuất kích về đồng bằng thì nhận được tin, đại đội phó Tế đã hy sinh ở ấp Hiền Lương. Nhưng giờ G đã điểm, lệnh nổ súng trên toàn tuyến đã phát hỏa, cánh quân phía Bắc vẫn về đánh các mục tiêu quy định.
Đêm 9/3 hàng trăm cán bộ du kích, bộ đội địa phương, bộ đội chủ lực lặng lẽ vượt qua các chốt gác của địch trên tuyến giáp ranh để tiến về đồng bằng Phong Quảng. Trời tối thui, lất phất mưa. Mỗi người lính phải mang trên người vài chục cân gạo, đạn, súng ống. Các chốt lính dù đóng quân hầu như không phát hiện được. Lâu lâu chúng lại bắn lên trời những trái hỏa châu, chiếu sáng cả một vùng. Lúc ấy, chúng tôi đành phải ngồi chờ, tự biến mình thành các bụi cây nhỏ lẫn vào đám sim mua, cỏ tranh. Chúng tôi đi suốt một đêm mới về được tới bãi cát Triều Dương. Đây là một dải làng hoang, dân bỏ đi từ lâu. Chỉ còn sót lại vài mảng tường rêu phong và những khu vườn rậm rạp cây cối. Cách làng không xa, có một đầm nước và một cánh rừng phi lao nhỏ. Cây mọc cao chưa quá đầu người, xen lẫn với những bụi cây dứa dại, cây bờn bờn. Đại đội của tôi được lệnh bí mật trú bám ở đây để đến đêm đi tiếp. Một ngày trời những người lính chui lủi trong cát, náu mình dưới các lùm cây, im lặng ăn lương khô và uống nước lã. Sáu giờ tối ngày 10/3 đại đội của tôi có du kích dẫn đường được tách ra đi về vùng cát phá Tam Giang để tiếp cận căn cứ Thành Trung. Trời đổ mưa suốt đêm. Đi tới hơn hai giờ sáng, người du kích dẫn đường mới xác định sai hướng. Chúng tôi đã băng qua không biết bao nhiêu đường đất, lội qua những cánh ruộng ngập nước, có lúc phải bơi qua đầm phá... Cho đến 4 giờ sáng, biết rằng không thể tới được Thành Trung, sau khi hội ý trong ban chỉ huy đại đội chúng tôi quyết định đánh chiếm làng Phú Lương B để lấy chỗ trú quân và chuẩn bị đánh chống càn.
Chỉ mới nổ vài loạt súng, trung đội nghĩa quân ở đây đã vất súng bỏ chạy, có đứa xin hàng. Nhưng tôi hiểu rằng, đây mới chỉ là sự khởi đầu cho những trận đánh dai dẳng và quyết liệt. Từ lúc trời chưa sáng rõ các trung đội, tiểu đội, các điểm hỏa lực đã được bố trí theo các hướng mà chúng tôi cho rằng địch sẽ tấn công. Trung đội 1 và trung đội 3 bám ở phía nam của làng. Trung đội 2 chốt giữ phía bắc. Thấy bộ đội về, những người dân ở Phú Lương B đã quen với chinh chiến, bom đạn, cử người lo cơm nước cho bộ đội. Một bộ phận đồng bào được lệnh đi sơ tán sang làng khác.
Bảy giờ sáng, chiếc máy bay trinh sát đầu tiên của địch đã lượn vè vè quanh làng. Bắt đầu từ 8 giờ, hàng chục máy bay trực thăng chiến đấu lao xuống phóng rốc két, vãi đạn 40mm phá sập từng căn nhà, băm nát các bụi tre vây quanh làng. Những người chiến sĩ của đại đội tôi phần đông là người Hà Tĩnh, Hà Nội, Vĩnh Yên, Phú Thọ lần đầu tiên xuất kích về đồng bằng đánh địch được tận mắt nhìn thấy những chiếc trực thăng chiến đấu bay sát ngọn tre không khỏi ngỡ ngàng và lo sợ. Ngay đợt tập kích đầu tiên của địch bằng máy bay và pháo, chúng tôi đã hy sinh bốn chiến sĩ và du kích. Những ngôi nhà dân bén lửa bốc cháy, đổ sập. Chín giờ sáng ba đại đội của địch, có xe tăng yểm trợ tấn công bao vây Phú Lương. Bộ đội cố thủ trong các căn hầm mới kịp đào sau các lũy tre, nhìn rõ từng chiếc xe tăng của địch càn lướt trên cánh đồng, phía sau xe là những tên lính ngụỵ đầu đội mũ sắt, tay lăm lăm khẩu AR15 và súng M72, súng cối cá nhân. Chúng bắn như vãi đạn vào làng. Chờ cho đến khi chiếc xe tăng M113 của địch chỉ còn cách trận địa 50m, những khẩu B40, B41 và cánh bộ binh mới phát hỏa. Trái mìn chống tăng được cài ngay trên đường trục dẫn vào làng nổ, trùm lửa lên chiếc xe tăng... Biết gặp phải chủ lực của giải phóng, quân ngụy rút lui ra xa, gọi pháo, và máy bay trực thăng tới tiếp tục bắn phá.
Cho đến 4 giờ chiều, không nhớ rõ chúng tôi đã bẻ gãy bao nhiêu đợt tấn công của quân ngụy trên các mũi, các hướng. Bộ đội một số hy sinh, bị thương. Những giờ khắc ôm súng chờ địch tấn công vào làng như bị kéo căng ra, lại phải chống đỡ với những chiếc trực thăng chiến đấu có lúc sà thấp ngang ngọn tre, nhìn rõ gã lính ngụy bắn đại liên ngồi sát cửa. Chỉ đến khi chúng tôi bắn cháy một máy bay, lũ trực thăng mới không dám bay thấp. Một chiếc máy bay chở thằng tâm lý chiến, mở loa to hết cỡ, ra rả kêu gọi: "Hỡi các cán binh Bắc Việt! các anh đã bị vây chặt. hãy mau mau ra chiêu hồi, về với chính nghĩa quốc gia. Các anh sẽ được chính phủ Việt cộng hòa đối xử tử tế". Một người lính văng tục "Chiêu hồi cái cục c...! Mẹ mày có giỏi cứ vào đây".
Vào lúc 6 giờ tối trời còn hửng sáng. Không gian im bặt. Không còn tiếng máy bay. Đám lính bộ binh của ngụy cũng lặng lẽ rút sang làng bên. Không nghe tiếng gầm gừ của xe tăng. Trinh sát đi bám địch báo về: Quân nguỵ đã rút! Chúng tôi được lệnh gom quân và tổ chức chôn cất tử sĩ. Lâu lâu địch ở đồn Sịa lại bắn lên trời hàng chục quả pháo sáng. Trong quầng sáng nhờ nhạt, những người lính mệt mỏi sau một ngày căng thẳng. Chúng tôi đã chôn cất những người đồng đội ngay trên một cánh ruộng khoai nơi đầu làng Phú Lương B. Gió thổi ràn rạt trên đồng, thoảng lại mùi cháy khét của những căn nhà còn đỏ rực than hồng; xác trâu bò lợn gà chết, mùi cao su cháy...

Quảng An hôm nay:
Chưa tới một giờ đồng hồ, chiếc xe của Hội Văn nghệ đã đưa tôi về tới Phú Lương, qua ngả Hương Trà. Con đường tỉnh lộ 4 về Sịa đã được trải đá, láng nhựa. Đường đất dẫn vào các làng của xã Quảng An bây giờ hầu hết đã được bê tông hóa. Dấu tích của những làng quê từng bị tàn phá trơ trụi trong chiến tranh nay không còn nữa. Sau ngày giải phóng, những người dân của các thôn Phú Lương B, An Xuân, Phước Thạnh, Đông Xuyên, Mỹ Xá đã trở về sinh sống xây dựng quê hương.
Tình cờ tôi được biết anh Trương Niềm, một người dân của thôn An Xuân ngày trước, nay là chủ tịch xã. Anh Niềm vốn là người làm ruộng, sau tham gia du kích xã. Trải qua hàng chục năm gắn bó với HTX nông nghiệp và thời kỳ khó khăn nhất của đất nước, năm 1994 anh được bà con tín nhiệm bầu vào Hội đồng nhân dân, giữ chức chủ tịch. Trò chuyện một hồi anh Niềm mới biết rằng tôi đã từng về đánh giải phóng Phú Lương, Quảng An, đã đóng quân ở làng An Xuân quê anh.
Trong câu chuyện anh Niềm cho biết: hiện nay đời sống của bà con nông dân ở Quảng An đã khá hơn nhiều so với những ngày sau giải phóng. Chỉ tính riêng sản lượng lúa 2001 toàn xã thu được 5.536 tấn. Năng suất lúa ở đây đạt trên 11 tấn/ha; nhiều hộ nông dân ở các thôn Phú Lương, Phước Thành, An Xuân đã cải tạo vườn tạp thành vườn cây ăn trái hoặc chuyển sang trồng các loại rau màu, thực phẩm có giá trị kinh tế cao. Những năm gần đây được sự quan tâm của nhà nước, sự đồng lòng của người dân đồng ruộng của Quảng An đang từng bước hoàn chỉnh hệ thống kênh mương, đủ sức tưới tiêu cho 286 héc ta đất nông nghiệp. Cả xã đã xây xong 2 trường trung học cơ sở và chuẩn bị xây trường thứ ba. Người dân Quảng An đã có nước sạch để sử dụng.
Buổi tối chú Hai đưa tôi ra vùng đầm phá Tam Giang hóng mát. Ngày đại đội tôi về đánh Phú Lương, Hai mới chỉ là cậu bé 15 tuổi. Người nhỏ choắt, đen như cột nhà cháy. Những năm chiến tranh bom đạn đã thiêu trụi nhà cửa, vườn tược của gia đình Hai. Cha mẹ Hai vẫn ở lại bám đất giữ làng. Hai bây giờ đã là chủ gia đình. Vợ chồng chú nhận khoán được năm sào, ngoài ra còn làm vườn đủ nuôi 6 miệng ăn. Ngôi nhà mới xây bằng gạch của vợ chồng Hai dựng trên nền đất cũ. Hai chỉ cho tôi coi ngấn nước còn hằn lại trên vách tường nhà của trận lụt năm 1999. Nước sông Bồ tràn vào cao cả thước. Năm ấy, người dân Quảng An nhiều hộ bị sập nhà, mất tài sản.
Đi trên con đường dọc theo bờ phá Tam Giang, tôi bắt gặp vô số những đìa tôm của người làng An Xuân. Le lói ánh đèn trong những căn nhà dựng kề bờ nước. Tôi biết hiện nay Quảng An có khoảng trên 130ha dùng để nuôi trồng thủy sản, chủ yếu là nuôi tôm xuất khẩu. Khả năng diện tích nuôi tôm sẽ còn mở rộng hơn nữa vào những năm tới. Có nhiều hộ nông dân nuôi tôm ở đây mỗi năm thu được từ vài chục đến hàng trăm triệu đồng. Người nông dân Quảng An bây giờ không chỉ trông vào hạt lúa. Từng khóm ấp, từng hộ nông dân đang tìm cách tự làm giàu cho chính mình... Đi một đoạn tôi nhận ra con đường đất chạy dọc theo bờ phá chính là con đường gần 30 năm trước những người du kích Quảng Điền đã đưa chúng tôi về đồng bằng trong một đêm mưa. Ẩn sâu trong ký ức của tôi vẫn giữ nguyên hình ảnh những người lính của đơn vị mình trong đêm về đồng bằng. Đêm ấy, phía đông nam hừng lên một quầng sáng đỏ. Người du kích dẫn đường bảo rằng đấy là Cố Đô Huế. Ngọn đèn đỏ nhấp nháy trên đỉnh tháp Phu Văn Lâu. Thành phố Huế với chúng tôi ngày ấy thật xa vời. Còn anh chàng Nhiếp "răng vàng", y tá đại đội đi cùng với tôi lại chỉ vào những ánh lân tinh hắt lên từ mặt phá Tam Giang, bảo rằng: giống hệt như vùng biển Hạ Long quê anh.
... Nhiếp, Công và nhiều người lính nữa của đại đội của tôi đã ngã xuống trong ngày chốt giữ Phú Lương B. Một số khác, nằm lại trên bãi cát Triều Dương bỏng rát, chìm sâu trong lòng đất của các làng Cao Ban, Sơn Tùng, Hiền Lương, Ấp Cầu Đen... Nhiều người lính không biết rằng: trận chiến này là trận cuối, chỉ không đầy 15 ngày sau Huế giải phóng.
Tôi vẫn chưa quên được cảm giác đến nghẹn lòng. Ngày 30/4/1975 nghe tin Sài Gòn giải phóng, những người lính của đại đội tôi đang chốt giữ An Xuân nhiều người đã rơi nước mắt. Có người không kìm giữ được đã đưa súng lên trời, nổ những viên đạn cuối cùng, mừng chiến thắng.
Đ.K.C

(nguồn: TCSH số 166 - 12 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • LTS: Phát hành tới hàng trăm ngàn bản, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm là cuốn sách duy nhất (có thể nói như vậy) gây được xúc động cho các thế hệ độc giả trong và sau chiến tranh, cho cả hai phía xâm lược và chống xâm lược nhờ tính chân thực của nó.Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc một số trang trong cuốn Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm và hai bài viết liên quan đến cuốn sách

  • NGUYỄN QUANG HÀ                        Truyện kýHoà thượng Thích Đôn Hậu gọi đại đức Thích Trí Diệm lên phòng riêng:- Ta đang mắc công chuyện không thể xa Huế được trong thời gian này, nên ta cử thầy vào chùa Hải Đức, Nha Trang tham gia cuộc thuyết pháp quan trọng tại đó. Thầy đi được chớ?Đại đức Thích Trí Diệm cúi đầu thưa:- Dạ, được ạ.

  • VĨNH NGUYÊN                Truyện kýSau “vụ” gặp em, tôi băn khoăn lắm lắm. Là bởi trước đó - trước quả rốc-két mà chiếc F4H phóng xuống và em bị thương dưới đùi, em đang chờ tháo dây thuyền ở hốc đá, còn tôi thì giữ lấy ống ti-dô cho nước vào hai cái thùng phuy trên thuyền cho em. Hai chiếc thùng phuy 400 lít nước sắp tràn đầy. Như vậy là quá đủ thời gian cho chúng ta có thể hiểu biết về nhau, tên tuổi, quê hương bản quán.

  • ĐẶNG VĂN SỞ          Ghi chépKhông hiểu sao tôi lại đi tìm anh - anh Nguyễn Đức Thuận - người anh chú bác ruột cùng chung sống dưới một mái nhà với tôi. Tôi chỉ nhớ là hồi đó chồng của cô tôi nằm mơ thấy anh, và bác vào tận Nha Trang để đi tìm anh Mậu, người đồng đội và là người chứng kiến lúc chôn cất anh.

  • NGUYỄN QUANG HÀMột buổi sáng vợ chồng anh Thảo, chị Ái đang đèo nhau, phóng xe Honda trên đường Nguyễn Trãi, một con đường lớn của thành phố Huế, bỗng có một người lao thẳng vào xe anh Thảo. Nhờ tay lái thiện nghệ, nên anh Thảo đã phanh xe kịp. Hai vợ chồng dựng xe, ra đỡ nạn nhân dậy.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGBút kýAnh đã xứng đáng với danh hiệu "Nghệ sĩ Nhân dân" của nhà nước ta phong tặng. Riêng Hội Nghệ sĩ điện ảnh Nhật Bản đã tặng cho anh giải thưởng vẻ vang dành cho người nghệ sĩ thuật lại sự tích dân tộc mình bằng điện ảnh...

  • ĐÀO XUÂN QUÝĐã lâu lắm, có đến hơn hai năm, kể từ khi bị tai nạn ở chân tôi chưa đi vào các hiệu sách, kể cả các hiệu sách ở Nha Trang. Đi tới các hiệu sách thì xa quá, đi bộ thì không đi nổi, mệt và nóng lắm, mà đi xe thuê thì cũng khó, vì họ không phải chỉ đưa mình tới nơi mà còn phải đợi hàng giờ khi mình phải tìm chọn sách nơi này nơi nọ, quầy này quầy khác v.v...

  • NGUYỄN THANH CHÍHai mươi tám tuổi, nó không biết chữ và không quen đi dép, mặc áo quần dài; lầm lũi, ít nói nhưng rất khoẻ mạnh... Với nó rừng là nhà, các lối mòn trong rừng thì thuộc như lòng bàn tay... Đó là Trương Ngọc Hoàng, sinh năm 1977.

  • NGUYỄN TRỌNG BÍNHMọi chuyện xẩy ra suốt 55 ngày đêm ở đơn vị trong cuộc tổng tiến công nổi dậy xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tôi đều nhớ như in. Thế mà, lạ lùng thay, suốt thời gian đó, hàng ngày mình ăn thế nào, lại không nhớ nổi. Chỉ nhớ mang máng có lúc ăn cơm nắm, ăn lương khô. Về giấc ngủ, có thể là tranh thủ nửa ngủ nửa thức giữa 2 trận đánh hoặc lúc ngồi trên xe trong đội hình hành tiến. Cố hình dung, tôi nhớ được bữa cơm chiều ở dinh Độc Lập, hôm 30-4-1975.

  • NGÔ MINHỞ CỬA NGÕ XUÂN LỘCSư Đoàn 7 thuộc Quân Đoàn 4 của chúng tôi hành quân từ Bảo Lộc về ém quân trong một rừng chuối mênh mông, chuẩn bị tấn công cứ điểm Xuân Lộc, cửa ngõ Đông Bắc Sài Gòn, đúng đêm 1-4-1975.

  • HUỲNH KIM PHONG(Chào mừng kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng miền , thống nhất đất nước 30.4.1975 - 30.4.2005)

  • LÊ HOÀNG HẢICon người từ khi cảm nhận thế giới xung quanh là lúc cảm được sự xa vắng, ly biệt... Nhớ hồi thơ dại, đứng trên bến sông trước nhà nhìn sang Cồn Hến thấy sông rộng lắm cứ nghĩ khó mà bơi sang sông được. Mỗi lần đi bộ từ nhà lên cầu Gia Hội dù chỉ vài trăm mét nhưng lại cảm thấy rất xa. Càng lớn khôn cảm nhận về khoảng cách được rút ngắn. Nhưng lạ thay khoa học ngày càng khám phá không gian, vũ trụ thì chạm đến cõi vô cùng.

  • HỒ NGỌC PHÚTôi về lại Huế sau trận lụt tuy muộn nhưng khá lớn vào gần cuối tháng 12 năm 2004. Ngồi ở quán cà phê Sơn bên bờ chân cầu Trường Tiền, nhìn sông Hương vào lúc sáng sớm sao thấy khang khác, trong có vẻ như sáng hơn ngày thường.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGĐã lâu tôi không hề nhắc đến hoa, và tôi cảm thấy tôi đã có lỗi đối với những người bạn tâm tình ấy dọc suốt một quãng đời chìm đắm trong khói lửa. Thật ra, những cánh hoa nhỏ bé và mong manh ấy đã viền con đường tuổi trẻ đầy kham khổ của tôi. Chiến chinh qua rồi có nhiều cái tôi đã quên, nhưng những cánh hoa dại dọc đường không hiểu sao tôi vẫn nhớ như in, như thể chúng đã được ấn vào trí nhớ của tôi thành những vết sẹo.

  • NGUYỄN THẾ QUANG(Chuyện tình chưa kể của nhà thơ Hoàng Cầm)

  • VÕ NGỌC LANTôi sinh ra và lớn lên tại vùng Kim Long, một làng nhỏ thuộc vùng cận sơn, không xa Huế là bao. Bởi thuở nhỏ chỉ loanh quanh trong nhà, trong làng ít khi được “đi phố” nên đối với tôi, Huế là một cái gì thật xa cách, thật lạ lùng. Đến nỗi tôi có ý nghĩ buồn cười: “Huế là của người ta, của ai đó, chứ không phải là Huế của tôi”, ngôi chợ mái trường, một khoảng sông xanh ngắt và tiếng chuông chùa Linh Mụ... mấy thứ ấy mới là của tôi.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhân một lần ghé ngang Paris , võ sư người Huế Nguyễn Văn Dũng đã đi thăm sông Seine. Đứng lặng lẽ bên dòng sông thơ mộng bậc nhất nước Pháp, bỗng lòng ông nhớ sông Hương quá trời. Về lại Việt , ngồi bên bờ sông Hương, ông vẫn hãy còn thấy nhớ cồn cào cái dòng chảy thầm thì trong sương mù như một nhát cắt ngọt ngào giữa trái tim đa cảm.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGTôi rẽ vào nhà Thiệp để đưa bé Miên Thảo đi học. Cô bé hét vang nhà để bắt tìm cho ra chiếc dép đi trời mưa lạc nơi đâu không biết. Miên Thảo mặc chiếc quần Jean xanh và khoác áo len đỏ, choàng một chiếc phu la cổ màu đen trông thật đỏm dáng.

  • NGUYỄN QUANG HÀSông Bồ là con sông không dài, nhưng đẹp ở về phía Bắc Huế. Phía tả ngạn, hữu ngạn vùng thượng lưu sông là hai huyện Phong Điền và Hương Trà, vùng hạ lưu sông chảy qua Quảng Điền rồi đổ vào phá Tam Giang. Làng xóm hai bên bờ sông khá trù mật.

  • MINH CHUYÊN (Tiếp Sông Hương số 12-2008)