Về cuộc thi thơ của người tàn tật Thừa Thiên Huế

14:29 18/11/2009
THỦY THANHCuộc thi thơ dành cho người tàn tật ở Thừa Thiên Huế mặc dù "thời gian ứng thí" chưa đầy 2 tháng nhưng đã thu được kết quả đáng khích lệ. Với 33 tác phẩm của 7 tác giả nghiệp dư mang khuyết tật trên mình nhưng mỗi con người trong họ vẫn là "một thế giới một tâm hồn" lành lặn.

Thơ của họ tuy còn nôm na, mộc mạc thậm chí vụng về, dễ dãi nhưng nó vẫn lấp lánh những năng lượng nghệ thuật vốn có và vốn bị chìm khuất trong con người. Khi con người rơi vào sự bất hạnh hoặc sự cô đơn thì năng lượng ấy dường như được tiềm thức khơi dậy. Buồn đau và thi ca, thi ca và buồn đau vẫn luôn đeo đẳng nhau như một hằng số của định mệnh. Ở người tàn tật, bao giờ trong họ cũng canh cánh những nỗi niềm thân phận và sự khai thị giải tỏa hợp lý nhất hẳn không có con đường nào khác ngoài thi ca. Họ đã biết vượt qua nỗi đau như nhiên, nỗi đau thể xác và cả những mặc cảm, tự ti để hòa mình vào cuộc sống chung của cộng đồng với niềm tin vô bờ:

            Bình minh lên bóng đêm rơi giọt lệ
            Mẹ ơi hãy tin bước chân con trong đời
            Ngày mai dưới mái trường có thầy cô bè bạn
            Tuổi thơ mắt mờ đến trường hết bơ vơ
            Rồi đây sẽ nên người sẽ vui tươi sẽ yêu đời
            Tình thương của bao người là nụ cười
            Tình thương của bao người là mặt trời
            Tình thương của bao người là bình minh trong mắt em.
                        (Bình minh trong mắt em - Trương Thị Thanh Tiên)

Đôi khi, họ cảm thấy mình lẻ loi, cô độc trước cuộc đời rồi ngửa mặt lên trời cũng chỉ thấy sao khuya đợi, sao mai lỡ làng... mà thêm bẽ bàng, chua xót. Nhưng rồi sự sống như nhà thơ Xuân Diệu đã từng viết là không bao giờ chán nản vì sự sống thật mong manh nên càng đáng quí, đáng nâng niu, kể cả những sinh linh hoang dã:

            Buồn buồn ngửa mặt lên trời
            Thấy sao khuya đợi...
            Sao mai lỡ làng
            Thì thôi số kiếp bẽ bàng
            Em xin làm một chồi hoang bên đời...
                        (Không đề - Nguyễn Văn Mễ)

Thơ của họ có khi là những bi cảm chưa đạt tới bi ca nhưng cũng không hề bi quan, bi lụy. Đến những người mù cả 2 mắt vẫn biết bấm chí: chăn nuôi ta biết chuyên cần, một năm thu gấp hai lần vốn vay. Khi hỏng mắt thì người ta như được sáng ra ở những giác quan khác qua lao động:

            Tay sờ vào máng lợn ăn
            Không nhìn thấy, cũng biết rằng lợn no
            Tai nghe cục tác tiếng gà
            Chỉ nghe đã biết gà nhà, gà ai...
                        (Người mù chăn nuôi - Nguyễn Văn Diệu)

Những câu thơ trên tuy còn ở dạng vỡ vạc, thô tháp nhưng nó thật nên dễ gây ấn tượng và sức truyền cảm. Cũng có tác giả tỏ ra có "tay nghề" hơn nên tác phẩm của họ cũng mang dáng dấp những cấu trúc chỉnh thể. Chùm thơ viết theo thể luật Đường của Bùi Quang Thiện niêm luật chặt chẽ, nhịp thơ mạch lạc nhưng đáng tiếc là ngôn ngữ cũng như giọng điệu lại có phần cũ mòn:

            Phảng phất hương sen, lúa dậy thì
            Võng hè nặng trĩu tiếng từ Quy
            Tóc xanh rụng vướng từng trang sách
            Áo trắng mờ theo mỗi học kỳ
            Ray rứt lời ve, than số kiếp
            Chan hòa giọt phượng, dẫm trường thi
            Bên hiên viết vội dòng lưu niệm
            Người thẩn thơ về kẻ bước đi
                       
(Nhịp hè - Bùi Quang Thiện)

Dù sao thì qua cuộc thi này, những người tàn tật cũng đã bộc lộ phần nào đời sống tâm linh mà tâm linh vốn là cái bất biến cái bình đẳng và thiêng liêng của con người nói chung cần được trân trọng.

Cuối cùng, Hội bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi Thừa Thiên Huế cùng Ban giám khảo cuộc thi đã chọn được một giải nhất với bài Bình minh trong mắt em của Trương Thị Thanh Tiên, 2 giải nhì gồm không đề của Nguyễn Văn Mễ, Nhịp hè của Bùi Quang Thiện và 2 giải ba là Người mù chăn nuôi của Nguyễn Văn Diệu, Vắng của Lê Văn Tiến. Kết quả này sẽ được gửi lên Trung ương Hội để dự tuyển "topten thơ" Việt Nam tham gia cuộc triển lãm thơ "Một thế giới một tâm hồn" của quốc tế dành cho người tàn tật vào năm 2000. Triển lãm sẽ lần lượt trưng bày tại các nước thành viên tham gia là Mỹ, Bra - xin, Pháp, Nhật, Ô - xtray-li-a và Việt Nam.

Cuộc thi và triển lãm thơ này tuy đối tượng hẹp và chất lượng có thể bị hạn chế nhưng ý nghĩa xã hội của nó thật lớn lao và đầy tính nhân bản.

T.T
(126/08-99)


 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN ĐÌNH SỬ - LÃ NGUYÊN

    (Nhân bài báo của Ngô Tự Lập Đọc sách “Lột mặt nạ Bakhtin - câu chuyện về một kẻ lừa dối, một chuyện bịp bơm và một cơn mê sảng tập thểcủa Jean - Paul Bronckart và Cristian Bota (Thụy Sĩ, 2011, 630 trang))

  • DƯƠNG PHƯỚC THU (Sưu tầm, giới thiệu) 

    LGT: Đã từng có một cuộc xướng họa thơ trên báo với số lượng người tham gia đông kỷ lục; 1324 lượt tác giả với 1699 bài họa. Dưới đây, Sông Hương xin giới thiệu lại Vườn thơ đoàn kết do Báo Cứu Quốc - nay là Báo Đại Đoàn Kết tổ chức xướng họa thơ cách đây đã 43 năm.

  • LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920.

  • LÊ DỤC TÚ

    “Chủ nghĩa nhân văn tôn giáo cũng là một nguồn cảm hứng của văn nghệ, đồng cảm với con người nhân đạo trong văn chương”...

  • MAI VĂN HOAN

    Ngôn ngữ nói chung và chữ tôi nói riêng, khi bước vào tác phẩm văn học cũng có số phận thăng trầm liên quan mật thiết đến những thăng trầm của lịch sử nước nhà. Tìm hiểu chữ tôi trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam là một đề tài khá lý thú. Ở bài viết này, tôi chỉ đi sâu khảo sát chữ tôi được thiên tài Nguyễn Du sử dụng trong tác phẩm Truyện Kiều.

  • NGÔ MINH

    Bản lĩnh văn hóa là cuốn sách gồm các bài báo và tiểu luận của nhà văn Tô Nhuận Vỹ do Nxb. Tri thức ấn hành năm 2014. Tôi đọc một mạch với sự xúc động và hứng khởi.

  • LÝ HOÀI THU

    Thôn ca (1944) của Đoàn Văn Cừ là bức tranh thơ sống động về con người và cảnh vật của không gian văn hóa Sơn Nam - Bắc Bộ.

  • NGUYỄN ĐỨC DƯƠNG

    Độc giả trẻ thời nay không ít người sẽ hết sức ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng Truyện Kiều, thiên tiểu thuyết bằng thơ dài tới 3.254 câu với cả thảy 22.778 lượt dùng từ, nhưng lại chẳng hề có qua một chữ NẾU nào, tuy rằng nghĩa “ĐIỀU KIỆN” và/hay “GIẢ ĐỊNH”, vốn được diễn đạt bằng NẾU (hoặc các biểu thức ngôn từ tương đương) trong tiếng Việt đương đại là một trong những nghĩa phổ quát (tức mọi thứ tiếng đều có) và ít thấy một thứ tiếng nào lại vắng các phương tiện riêng để biểu thị.

  • ĐINH VĂN TUẤN

    Trong số mấy bài thơ chữ Nôm còn lại của Bà Huyện Thanh Quan, bài thơ “Qua Đèo Ngang” là bài thơ gần đây được tranh luận nhiều nhất về chữ nghĩa, đặc biệt là về từ ngữ “cái gia gia”(1).

  • KHẾ IÊM

    Tựa đề về cái chết của hậu hiện đại không có gì mới vì đã có khá nhiều bài viết bàn về vấn đề này, từ những đầu thập niên 1990. Nhưng bài viết đã phác họa cho chúng ta thấy đời sống văn hóa trong thời đại sau chủ nghĩa hậu hiện đại với sự xuất hiện những phương tiện công nghệ mới. Lạc quan hay bi quan, chúng ta chưa biết, nhưng rõ ràng những hệ tư tưởng cũ đang dần dần bị tàn phai nơi những thế hệ mới.

  • ALAN KIRBY

    LTS: Alan Kirby nói chủ nghĩa hậu hiện đại đã chết và đã được chôn. Tới thế chỗ của nó là một hệ hình mới của thẩm quyền và kiến thức được hình thành dưới áp lực của những công nghệ mới và các lực lượng xã hội đương đại. Tựa đề bài tiểu luận, lần đầu tiên xuất hiện trên tạp chí Philosophy Now (Triết học Bây giờ) ở Anh, số 58, năm 2006, và sau đó được in trong cuốn “Digimodernism: How New Technologies Dismantle the Postmodern and Reconfigure Our Culture”, được Continuum xuất bản vào năm 2009.

  • LÊ QUỐC HIẾU

    Trong các bộ phận của khoa nghiên cứu văn học Việt Nam hiện nay, không thể phủ nhận lý luận, phê bình là lĩnh vực có nhiều thay đổi rõ rệt. Một loạt những công trình nghiên cứu lịch sử lí luận, phê bình văn học “trình làng” trong những năm qua[1], đủ để nhận thấy tham vọng khái quát, đánh giá của các nhà nghiên cứu sau mỗi chặng đường phát triển của văn học.

  • THÁI KIM LAN
    I.
    Bài viết này được mở đầu bằng một trải nghiệm tự thân, từ chỗ đứng của chủ thể thực hành nói ra kinh nghiệm của mình, vì thế có thể gây ấn tượng về tính chủ quan. Sự trách cứ ấy xin nhận lãnh trước, nhưng xin được tạm thời để trong dấu ngoặc.

  • LUÂN NGUYỄN

    Nhất đình sơn vũ luyện hoa khai
                 (Mộ xuân tức sự - Nguyễn Trãi)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    (Trích tham luận tại Hội thảo "Văn học trước yêu cầu đổi mới" tháng 12-1987)

  • BỬU CHỈ

    Đã từ lâu tôi vẫn nghĩ và tin rằng: quê hương của nghệ thuật là Tự Do, và nghệ thuật đích thực phải thoát thai từ những con người sáng tạo có đầy đủ quyền làm người, cùng tinh thần trách nhiệm đối với cộng đồng xã hội của họ; và lớn hơn nữa là đối với con người.

  • LÊ QUANG THÁI

    Năm Quý Tỵ đã trôi qua, Xuân Giáp Ngọ đã về:
    Rắn trườn đã hết năm,/ Ngựa hay đưa Xuân về.(1)

  • ĐỖ LAI THÚY

    Kìa ai chín suối xương không nát
    Ắt hẳn nghìn thu tiếng vẫn còn
                   
    (Nguyễn Khuyến)

  • TRẦN HUYỀN TRÂN

    Có lẽ, Cám dỗ cuối cùng của Chúa là cuốn tiểu thuyết nói về khoái lạc trần tục của Jesus một cách táo bạo nhất?