“Toàn bộ cuốn sách làm bằng bạc mạ vàng, chỉ có 5 tờ (10 trang) nhưng nặng tới 7 ký, xuất hiện vào thời vua Thiệu Trị (1846), có kích cỡ 14×23 cm..."
Biết tôi là người hoài cổ, thích đồ cổ nhưng lại không có điều kiện chơi đồ cổ nên một anh bạn tâm giao dạo lưới toàn cầu, hễ thấy có tin tức gì về loại này ở Việt Nam là lập tức chuyển ngay qua email. Lần này, là một tin tức khá lý thú. Đó là bài báo “Cuốn sách vàng của vua Thiệu Trị” của nhà báo Nguyễn Hữu Hồng Minh đăng trên thanhnienonline viết về việc một người Việt ở Canada, ông Cao Xuân Trường, vừa sở hữu được một cổ vật quí hiếm của triều Thiệu Trị (1841-1847) qua một cuộc đấu giá tại Paris – cuốn sách vàng phong Lương tần Vũ Thị Viên lên Lương phi. “Toàn bộ cuốn sách làm bằng bạc mạ vàng, chỉ có 5 tờ (10 trang) nhưng nặng tới 7 ký, xuất hiện vào thời vua Thiệu Trị (1846), có kích cỡ 14×23 cm. Thật thú vị khi biết cuốn sách dành để tấn phong bà Vũ Thị Viên – vợ vua từ hạng Lương tần lên hàng Lương phi. Ngoài 2 trang bìa trước và sau, 8 trang còn lại của sách phong khắc 186 chữ Hán nói về thân thế, công trạng của bà Vũ Thị Viên và lý do vua Thiệu Trị sắc phong cho bà. Bà Lương phi Vũ Thị Viên là ai?
Hoàng đế Thiệu Trị là vua thứ 3 của triều Nguyễn, miếu hiệu là Hiến Tổ Chương Hoàng Đế, kế vị vua Minh Mạng. Tuy chỉ trị vì trong 7 năm ngắn ngủi (1841-1847), băng hà lúc mới 40 tuổi, nhưng vua có đến 31 bà ở hậu cung, 29 hoàng tử và 35 hoàng nữ. Bà Vũ Thị Duyên là phủ thiếp của Hoàng tử Hồng Nhậm. Khi Hoàng tử trở thành vua Tự Đức, bà được phong làm Cung tần. Năm 1850, thăng lên Cần Phi; năm 1860, phong làm Thuần Phi, năm 1861 cải làm Trung Phi. Năm 1870, bà được phong tước vị cao nhất, Hoàng Quí Phi (chánh cung hoàng hậu), chưởng quản 6 viện (lục viện) trong nội cung. Nhưng "Đến tháng 12 năm Nhâm ngọ (1883) bà bị giáng làm Trung Phi vì nhân vua không được khỏe, đang dùng thuốc, bà công việc bề bộn, sai cung nhân dâng bữa cơm chiều hơi muộn. Tuy nhiên bà vẫn còn giữ được giai bậc cũ nhưng không được trông coi cả 6 viện" (Thế phả, tr.347). Có lẽ trong lúc bệnh hoạn, người không khỏe, nên vua đã bực bội phạt giáng chức bà nhưng trong lòng vẫn còn yêu thương, vì vậy trước khi băng hà, vua để di chiếu lập bà làm Hoàng hậu. Bà chính là Lệ Thiên Anh Hoàng hậu, được hiệp thờ với vua Tự Đức (Dực Tông Anh Hoàng đế) trong Thế miếu của Đại Nội, Huế.
Lại như vua Đồng Khánh, lên ngôi năm 1885, sau khi phong tước vị cho các bà vợ, qua mùa xuân năm 1887, không rõ trong nội cung xảy ra những xáo trộn như thế nào khiến vua bực mình, “Xuống dụ quở trách các phi tần trong nội đình và giáng xuống có thứ bậc (Quan phi là Trần Đăng thị nói năng tục tằn, giáng làm Tùy Tần; Chính tần là Hồ Văn thị không nghĩ đến việc công, giáng làm Mỹ nhân; Nghi tần là Lê thị, dữ tợn, tham lam, đố kỵ, ghép tội nặng, giáng làm Tài nhân; Tài nhân ở cửu giai là Trịnh thị, Nguyễn Hữu thị, tính quen dối trá, khinh nhờn, đều giáng làm cung nhân. Hoàng Quí Phi không biết sửa mình, quản suất mọi việc, để trong nội đình không theo phép tắc, cũng quở mắng ngặt hơn” (Thực lục IX, tr. 311-312). Mờ sáng hôm làm lễ, Bộ Lễ lo bày cờ tiết và hộp sách phong trên hai án vàng đặt tại căn giữa điện Cần Chánh. Bên ngoài, ngay dưới thềm, đã sắp sẵn long đình và ban nhã nhạc. Trên sân điện, Ty Loan nghi bày tán vàng, đội hộ vệ thuộc ty Cảnh tất mang gươm, lính Vệ Cẩm y mang đao, dàn hầu; ngoài cửa Nhật Tinh, lính Thân binh và Cấm binh mang tàn lọng và trượng đỏ đứng túc trực. Đến giờ, Chánh, Phó sứ đến trước sân điện Cần Chánh quì xuống. Quan Nội Các mang cờ tiết ra trao cho Chánh sứ. Quan Bộ Lễ mang hộp sách phong ra để trên long đình. Nhã nhạc trổi, Chánh sứ mang cờ tiết đi trước, kế đến long đình có lọng vàng che, theo sau có Phó sứ và quan Bộ Lễ, sau cùng là lính hầu mang gươm,đao hộ vệ. Đoàn ra khỏi sân điện Cần Chánh bằng Đại Cung môn (cửa bên trái), rẻ trái qua cửa Nhật Tinh. Ở đấy đã có lính Thân, Cấm binh cầm nghi trượng với tàn, lọng, gậy đỏ đứng đợi mở đường. Đoàn rước tiến về Duyệt Thị Đường. Đến cửa Hưng Khánh, tất cả nghi trượng và lính tráng dừng lại bên ngoài, chỉ có Chánh, Phó sứ, quan Bộ Lễ và cờ tiết, long đình vào nhà Duyệt Thị, dừng lại ở căn giữa. Tại đây đã có Thái giám và các cung giám (2) trong lễ phục chực sẵn. Thái giám quì bên phải long đình, tiếp nhận cờ tiết do Chánh sứ trao, xong đứng lên, kính cẩn mang cờ tiết đi vào nội cung, có cung giám gánh long đình để sách phong theo sau.
Đến cửa nội cung thì đã có nữ quan và ban nữ nhạc chực sẵn để tiếp nhận và rước vào cung viện nơi bà Phi ở. Bà Phi trong phẩm phục với mũ áo chỉnh tề quì đón cờ tiết và long đình ở sân, cúi đầu khi cờ tiết và long đình đi qua, xong đứng dậy theo vào bên trong. Tại đây, nữ quan mang cờ tiết và hộp sách phong để trên hai án vàng bày sẵn, bà Phi bước vào trước án làm lễ thụ sắc. Sau khi quì 3 lần và vái 6 vái rồi quì trước án, nữ quan nâng hộp sách trao cho bà Phi. Phi tiếp nhận đưa lên trán, cúi đầu, xong trao lại cho nữ quan bưng đứng qua một bên. Phi lại quì 3 lần vái 6 vái một lần nữa để làm lễ tạ ơn. Bấy giờ là xong lễ. Nữ quan rước cờ tiết ra trao lại cho Thái giám để Thái giám trả lại cho Chánh sứ. Chánh, Phó sứ rước cờ tiết về trả tại điện Cần Chánh và lạy phục mệnh đã xong nhiệm vụ, sau đó họ đến Tả đãi lậu viện để dự yến vua ban. |
Theo khoahocnet.com |
Hiện tại trong 6 lăng vua Nguyễn ở Huế đang còn tồn tại 10 con ngựa đá rất đẹp ở sân chầu dẫn vào khu mộ với nhiệm vụ canh giữ “hồn” xưa của vua.
30 năm qua, anh lặng lẽ chăm chút ngựa như chăm chút con mình, cái nghiệp trông coi ngựa gắn người với ngựa cũng từ đó. Anh nói, cái nghề này, nếu không yêu nghề thì phải bỏ thôi, chứ công việc hoàn toàn khác hẳn, đòi hỏi phải tinh mắt, biết lắng nghe, siêng năng, cần cù…
Cổng Ngọ Môn Quan là cổng chính phía Nam của Hoàng thành Huế, đồng thời cũng là cổng chính và là bộ mặt của Đại Nội. Ý nghĩa của cổng Ngọ Môn là gì? Có phải là lối ngựa đi?
Quầy thư pháp Tràm hoa vàng của bà Trần Thị Cúc nằm trên đường Lê Lợi (TP Huế) đã trở thành địa chỉ quen thuộc của người dân và du khách yêu thư pháp. Họ đến để được nhìn ngắm nét bút tài hoa của người phụ nữ duy nhất ở mảnh đất cố đô theo nghiệp viết thư pháp.
Di tích Thanh Bình Từ Đường nằm sâu 50m trong kiệt 281, đường Chi Lăng (TP Huế). Sức hấp dẫn của ngôi từ đường được xếp vị trí loại 1 di tích văn hóa cấp quốc gia.
Sông Hương - quà tặng tuyệt diệu của tạo hóa cho Huế thiên hạ đã biết, nhưng từ khi những con đường ven sông và các cây cầu vươn nhịp nối đôi bờ ngày một nhiều hơn thì các khách sạn và nhiều công trình kiến trúc khác, thường trọng “mặt tiền” là con đường người xe tấp nập, “vô tư” quay lưng với dòng sông từng là nguồn cảm hứng bất tận cho thơ ca nhạc họa.
Nhân dịp mừng xuân, mừng Đảng, xin kể lại câu chuyện về một người đảng viên được dân lập miếu thờ và có một ngôi trường mang tên ông.
Hiện nay, nghệ thuật pháp lam- Huế còn nhiều kiệt tác chưa được khám phá. Ấn tượng về sự sáng tạo tinh xảo của người nghệ nhân đi trước là động lực để người đương thời tạo nên những tác phẩm mới...
Cống Địa Linh xem như dấu mốc cuối cùng của phố cổ Bao Vinh. (Thừa Thiên - Huế). Qua cống Địa Linh rẽ trái dăm trăm mét, du khách sẽ bắt gặp những tấm ván dài và phía trên là những ông Táo được đặt lên phơi khô trước lúc đưa vào lò. Ở Huế đây là nơi hiếm hoi còn "sót lại” nghề làm ông Táo với nhiều ý nghĩa trong phong tục của người Việt.
Người Pa Kô ở A Lưới, Thừa Thiên – Huế và nhiều dân tộc vùng cao khác đều có nghệ nhân khèn bè nhưng điệu khèn lúc thì như nắng mới, như gió mơn man, như lau lách rì rào; khi thì da diết như tiếng lá khô chậm rãi rời cành…, thì chỉ có được trong điệu khèn Kăn A Kết. Điệu khèn nổi tiếng những năm 60, 70 của thế kỷ trước, lưu truyền trong dân gian nhưng rất ít người biết được…
Đây là phiên chợ độc đáo của xã Quảng Ngạn, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế, ít nơi nào có được. Nói là chợ phiên Quảng Ngạn nhưng chợ thu hút rất đông người dân của các xã lân cận như Điền Hải, Quảng Công vượt sóng nước Tam Giang về đây tụ hội. Chợ chỉ diễn ra trong 3 ngày, từ mồng một đến mồng ba Tết Nguyên Đán, rồi tan và chờ đến dịp này năm sau mới họp lại.
Trải qua bao biến thiên, thăng trầm của lịch sử, nhưng người dân ở thôn Hòa Vang, xã Lộc Bổn, huyện Phú Lộc (Thừa Thiên-Huế) vẫn còn cất giữ nhiều tư liệu quý về Hoàng Sa. Từ những bản sắc phong về “Cai đội Hoàng Sa” của vua Gia Long; đến chiếc đại hồng chung khắc tạc công ơn người trấn quản Hoàng Sa năm xưa… Tất cả đều được người dân xem như “báu vật lịch sử” và bảo vệ cẩn thận.
Tranh làng Sình (xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, Thừa Thiên - Huế) vốn là dòng tranh dân gian nức tiếng hàng trăm năm qua. Những ngày Xuân về, làng tranh này lại rộn ràng khoe màu như chưa từng có sự đứt gãy của thời gian.
Chiều ngày 19/01/2014, tại Gác Trịnh ( 103/19 nguyễn Trường Tộ - TP Huế), Câu lạc bộ tiêu sáo Huế đã tổ chức buổi giao lưu văn nghệ đón chào xuân mới. Đông đảo những người yêu nhạc Trịnh đã đến tham dự chương trình.
Khoảng 6h sáng 18/1, khi đang trên đường cập bến, cách cửa lạch biển Thuận An khoảng một km, tàu cá do thuyền trưởng Hồ Văn Hiền (trú thôn Hải Tiến, thị trấn Thuận An) điều khiển bị mắc cạn. Do sóng to nên tàu cùng 5 thuyền viên đã bị nhấn chìm ngay tại vùng cửa biển Thuận An.
Đương thời, vua Bảo Đại từng nhận xét về vẻ đẹp của Nam Phương Hoàng hậu rằng: “Nàng có vẻ đẹp dịu dàng của người con gái miền Nam, thùy mị và quyến rũ, pha một chút Tây phương làm tôi say mê”.
Sau bao thăng trầm của cuộc sống, tranh làng Sình xứ Huế có lúc tưởng chừng đã bị xóa sổ... Nhưng may mắn vẫn còn một người đau đáu với nghề làm tranh - Nghệ nhân Kỳ Hữu Phước. Ông đã gìn giữ và phục sinh nghề truyền thống có tuổi đời gần 500 năm.
Tình cờ, chúng tôi được chứng kiến trọn lễ A Riêu Piing của người Pakô ở xã Hồng Trung, huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên-Huế. Đây là lễ hội lớn nhất của người Pakô, được tổ chức 5 năm, thậm chí 10 năm một lần.
Trong dịp ghé thăm Huế đầu năm 2014, họa sĩ Nguyễn Đại Giang, cha đẻ trường phái upsidedownism - đảo ngược (Từ đảo nghịch cuộc đời đến đảo nghịch hội họa, Tuổi Trẻ ngày 15-2-2009), đã có buổi vẽ tranh thú vị tại gác Trịnh - căn gác nơi Trịnh Công Sơn sống thời trai trẻ ở Huế.
Điện Long An - Bảo tàng cổ vật cung đình Huế và những gì chứa đựng bên trong thực sự là một di sản quý báu.