NGUYỄN VŨ QUỲNH NHƯ
Ảnh: goodreads.com
Phong trào thơ mới ra đời cách đây hơn sáu mươi năm - khoảng thời gian dài cho những biến đổi trong sáng tác và phê bình văn học. Tuy nhiên, trong phê bình, chỉ những năm gần đây mới xuất hiện một số ít cây bút bổ sung cho phê bình văn học truyền thống, kiếm tìm những điều chưa có tên trong tác phẩm văn học: những ám ảnh, sự tồn tại của tác phẩm văn học trong ngôn từ, trong văn bản...
Xuất hiện sau "Thi nhân Việt Nam" (1942) của Hoài Thanh - Hoài Chân tròn một nửa thế kỷ, "Con mắt thơ" (1992) của Đỗ Lai Thúy là cuốn sách gợi mở những chiêm nghiệm Thơ Mới ở nhiều góc độ.
Từ "Khúc dạo: Thơ Mới, nhìn từ góc độ cái tôi" đến "Khúc ngân: Thơ Mới, hành trình cái tôi, hành trình nghệ thuật (2) Đỗ Lai Thúy tạo một cái nhìn triết học có tính nhân sinh về Thơ Mới. Đó là những quan niệm về con người, về thời gian, về không gian. Và thời gian, không gian lại chính là hai trong "số những hình thức nghệ thuật của nghiên cứu thi pháp học - một bộ môn nghiên cứu văn học hướng tới những tiềm ẩn trong tác phẩm từ các hình thức biểu hiện bằng ngôn từ nghệ thuật. Thời gian và không gian trong Con mắt thơ là sự ám ảnh của Xuân Diệu, là nỗi khắc khoải của Huy Cận và hắt bóng nhẹ nhàng lên Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương…; góp phần tạo dựng cái tôi đặc thù ở mỗi nhà thơ. Không phải đến Đỗ Lai Thúy mới nói đến cái tôi mà ngay từ khi Thơ Mới ra đời, nhiều người đã nói đến nó như một trong những yếu tố làm thay đổi toàn bộ nền thơ Việt Nam. "Ngày trước là thời chữ ta, bây giờ là thời chữ tôi" (Thi nhân Việt Nam). Với Đỗ Lai Thúy, câu thơ của Xuân Diệu "Ta là một, là riêng, là Thứ Nhất" mở đầu cho một loạt những cái tôi riêng của từng nhà thơ, cái tôi đa dạng của cả phong trào Thơ Mới. Bắt đầu từ "phạm trù cái tôi" qua "chữ tôi đích thực" được xác định với "diện mạo cụ thể, diện mạo của cá-nhân-chủ-thể-sáng-tạo" để giới thiệu một trong những người mở đầu cho phong trào Thơ Mới. - Thế Lữ "Người bộ hành phiêu lãng". Đỗ Lai Thúy viết: "Thế Lữ dắt tay người khách lạ ấy vào thơ để giới thiệu cùng bạn đọc,... đưa ra rất nhiều định nghĩa về cái tôi" Tiếp sau đó, với bức "Chân dung tự họa", cái tôi phát triển dưới nhiều loại hình "cái tôi đô thị", "cái tôi trữ tình", "cái tôi siêu ngã", cái tôi "đồng hóa nó với nội tâm", "cái tôi cá thể", "cái tôi hiện đại cá nhân", "cái tôi tâm linh bí ẩn"... Đỗ Lai Thúy tạo một thế giới Thơ Mới “ấm nóng cảm xúc cá nhân” mang “dấu ấn cá nhân”. Những giăng mắc, từ đầu đến cuối tác phẩm, có thứ tự của cái tôi - từ lúc ra đời cho đến khi tự khẳng định bản ngã, như vặn xoáy vào đáy lòng người đọc những dấu ấn, những khẳng định của một thời "cải tạo thế giới một cách thi vị".
Trong "Con mắt thơ" cái tôi được phản ánh, được nghiên cứu đan xen giữa không gian, thời gian và những ám ảnh. Những yếu tố này tham gia vận động cùng ngôn ngữ, nhập vào đời sống tâm linh của nhà thơ. Một Xuân Diệu gấp gáp với "nỗi ám ảnh thời gian". Một Huy Cận suy tư trong "sự khắc khoải không gian". Một Nguyễn Bính ôm mối hoài niệm da diết với quê hương. Một Vũ Hoàng Chương khi say "lạc lối đào nguyên" tạo những hư ảnh diệu kỳ. Một Hàn Mặc Tử trữ tình trong "cõi siêu hình cao tột bực". Một nghệ sĩ ngôn từ Bích Khê. Và mơ say những ám ảnh, những con người vĩ đại ấy đã chiếm lĩnh thời gian, chiếm lĩnh không gian, thu vào mình cái chấp chới của thời gian, cái rợn ngợp của không gian để rồi tạo ra "Tôi là một người khác" (Je suis un autre - Arthur Rimbaud). Khi đó con người không còn là một con người giản đơn, mà hòa nhập với "âm thanh, màu sắc, hương thơm", cảm nhận những điều tinh tế, khó nắm bắt của vũ trụ: "cành biếc run run chân ý nhi", "những luồng run rẩy rung rinh lá" (Xuân Diệu) hay "Đang khi mầu nhiệm phủ ban đêm/ Có thứ gì rơi giữa khoảng im/ Rơi tự thượng tầng không khí xuống/ Tiếng vang nhè nhẹ dội vào tim" (Hàn Mặc Tử). "Con mắt thơ" của Đỗ Lai Thúy phóng chiếu cái nhìn thấu thị đến từng nhà thơ, dựa vào văn bản ngôn từ, dò tìm những đáy sâu cảm giác.
Đỗ Lai Thúy viết: "Điểm xuất phát cho hành trình đi tìm "Con mắt thơ" của tôi là tác phẩm... chính xác hơn phải là ngôn ngữ tác phẩm".
Trong lịch sử ngôn ngữ học, ngôn ngữ được mệnh danh là một nữ thần (nàng Vak). Nữ thần thể hiện phép nhiệm màu qua ngòi bút của người sáng tác, tạo nên cấu trúc thơ nằm trên "bề nổi của tảng băng trôi": "Ta là một khách chinh phu” hay "Thế Lữ là một chàng kỳ khôi" (Đỗ Lai Thúy trích thơ Thế Lữ). Mà theo Đỗ Lai Thúy "đây là cú pháp thuần túy khoa học nhằm làm nổi bật bản chất của sự vật, hiện tượng". Nhưng linh thi không được gợi ở chỗ này; Đỗ Lai Thúy nghe về những "tiếng gọi", những "tiếng nói” những biến hoá thần diệu của nàng Vak trong tiềm thức con người; Tiếng, Lời, Khúc, Vần, Điệu trong các tựa đề của thơ Thế Lữ là những yếu tố tạo thành nền thơ, nằm dưới "phần chìm của tảng băng".
Có thể nói, thơ là một diệu biệt của nghệ thuật ngôn từ, của thanh-sắc-hình. Một loại hình ngôn từ có "khoảng cách" với các loại hình ngôn từ khác. Và khi đó, "thi sĩ trở thành người lạ" (Le poète arrive à l’inconnu - Arthur Rimbaud). Đi tìm chất lạ là quá trình nhà "phê bình hoá thân thành "dòng sông trong suốt, trôi và uốn lượn xung quanh tác phẩm" (Jules Lemaître). Dòng sông của Đỗ Lai Thúy tạo ra những chỗ xoáy - những cảm giác hút người đọc, khi bị xô giạt theo những cụm từ như "bẹp dí hình ảnh/ "phồng lên đầy sinh khí", lúc trầm mình xuống với nỗi "buồn khổ, cô đơn đặc quánh, vón cục" hay cuốn theo dòng cảm xúc thơ Bích Khê (trang 176-177)...
Trong khi tìm được những "Con mắt thơ" của Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương, Hàn Mặc Tử, Bích Khê chính Đỗ Lai Thúy đã tìm thấy những "con mắt phê bình" của anh, phương pháp phê bình mới - Thi pháp học đan xen trực giác nghệ thuật tinh tế.
"Con mắt thơ" của Đỗ Lai Thúy là một thành tựu, băng lướt một lối mới vào phong trào Thơ Mới.
Hà nội 21-2-1993
N.V.Q.N
(TCSH57/09&10-1993)
---------------------
(1) Con mắt thơ - Đỗ Lai Thúy. Nxb Lao động, 1992.
(2) Hai khúc mở và kết trong phần viết của Đỗ Lai Thúy.
NGỌC BÍCH
(Đọc "Thơ Ngô Kha"*)
Bây giờ là năm 1992. Anh hy sinh đã gần 20 năm. Tập thơ của anh đã xuất bản được một năm nhờ những bạn bè thân quen và những người yêu mến thơ anh. Tôi là người đến muộn. Nhưng như người ta vẫn nói "dẫu muộn còn hơn không". Nhất là ở đây lại đến với MỘT CON NGƯỜI.
PHẠM XUÂN DŨNG
(Nhân đọc tập tản văn Ngoại ô thương nhớ của Phi Tân, Nxb. Trẻ, 2020)
HỒ THẾ HÀ
Lê Văn Ngăn, sinh ngày 15 tháng 01 năm 1944, tại Quảng Thọ, Quảng Điền, Thừa Thiên Huế. Học, trưởng thành và tham gia phong trào học sinh, sinh viên yêu nước ở Huế (1965 - 1975). Là phóng viên Đài Phát thanh Huế (1975 - 1978).
PHẠM TRƯỜNG THI
Trong số các nhà thơ thời tiền chiến người quê gốc Nam Định, có ba nhà thơ mặc dù khác nhau là không được sinh ra cùng ngày, cùng tháng, cùng năm, cùng một miền đất nhưng họ lại rất giống nhau là đều khóc tiếng khóc chào đời nơi vùng đồng chiêm trũng, nghĩa là nơi được xem là những cái rốn nước của tỉnh Nam Định.
HỒ HUY SƠN
Năm 2019, văn đàn Việt chứng kiến một cuộc chuyển giao trong đời sống văn học trẻ nước nhà. Thế hệ 8X vẫn cần mẫn viết nhưng có xu hướng trở nên lặng lẽ hơn; trong khi đó, thế hệ 9X lại đang có một sức bật không kém phần táo bạo, bất ngờ. Bài viết dưới đây nằm trong sự quan sát mang tính cá nhân, với mong muốn đưa đến người đọc những nét nổi bật trong năm qua của văn chương trẻ.
PHẠM PHÚ PHONG
Trong mấy thập niên gần đây, cái tên Nguyễn Thị Thanh Xuân không còn xa lạ với độc giả trong cả nước.
PHAN TRỌNG HOÀNG LINH
Trong một tiểu luận bàn về Ngoại biên hóa trong tiến trình văn học Việt Nam đương đại, học giả Trần Đình Sử xem “ngoại biên hóa chủ yếu là phương thức tồn tại thông thường của văn học”.
HỒ THẾ HÀ
Mấy mươi năm cầm bút đi kháng chiến, Hải Bằng chỉ vỏn vẹn có 1 tập thơ in chung Hát về ngọn lửa (1980) ra mắt bạn đọc.
LÝ HOÀI THU
Trong bộ tứ bình bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, xuân là bức màn thứ nhất, là khúc dạo đầu của nhịp điệu thiên nhiên. Đó vừa là không gian, vừa là thời gian để vòng tuần hoàn của sự sống tồn tại và sinh sôi.
LÝ HOÀI THU
Trong bộ tứ bình bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, xuân là bức màn thứ nhất, là khúc dạo đầu của nhịp điệu thiên nhiên. Đó vừa là không gian, vừa là thời gian để vòng tuần hoàn của sự sống tồn tại và sinh sôi.
PHAN TRỌNG HOÀNG LINH
Trong thế hệ những nhà văn tuổi Canh Tý đương thời (sinh năm 1960), Hồ Anh Thái chiếm lĩnh một vị trí nổi bật. Càng đặc biệt hơn khi hình ảnh con chuột từng trở thành biểu tượng trung tâm trong văn chương ông. Nhân dịp Tết Nguyên đán Canh Tý (2020), hãy cùng nhìn lại cuốn tiểu thuyết được ông viết cách đây gần một thập kỷ.
NGUYỄN TRỌNG TẠO
• Để chọn được những áng thơ hay, những người thơ có tài, người ta thường mở các cuộc thi, và cuối cùng là giải thưởng được trao.
PHẠM XUÂN DŨNG
Nhà thơ Tố Hữu là người xứ Huế nhưng lại có nhiều duyên nợ với Quảng Trị, nhất là đoạn đời trai trẻ, đặc biệt là với địa danh Lao Bảo.
TRẦN THÙY MAI
Đọc tập sách của Nguyễn Khoa Diệu Hà, với hơn 30 tản văn, tôi có cái cảm giác như đang ngồi trên tấm thảm thần Aladin bay về một miền mà không có xe tàu nào đưa ta đến được một miền thương nhớ đặc biệt “Ở xứ mưa không buồn”!
NGUYỄN QUANG THIỀU
Có không ít các nhà thơ lâu nay coi sứ mệnh của thơ ca không phải là viết trực diện về những gì đang xẩy ra trong đời sống con người.
VŨ VĂN
Một mùa xuân nữa lại về, mùa xuân của hòa bình, của ấm no và những đổi thay của đất nước. Nhưng đã có thời kỳ, những mùa xuân của dân tộc đến vào những lúc chiến tranh vô cùng gian khổ, trong lòng nhiều người từng sống qua những năm tháng ấy lại dâng lên niềm thương nhớ Bác, nhớ giọng nói của Người, nhớ những lời chúc Tết của Người vang lên trên loa phát thanh mỗi đêm Giao thừa.
ĐỖ QUYÊN
1.
Du Tử Lê thường được xem là một trong bảy nhà thơ hàng đầu của nền văn học miền Nam Việt Nam trước năm 1975, cùng với Bùi Giáng, Vũ Hoàng Chương, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Đinh Hùng, và Nguyên Sa. Cây thơ cuối cùng ấy đã hết còn lá xanh giữa mùa thu này.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Nhân đọc các tập truyện của Trần Bảo Định vừa được xuất bản)
LƯU KHÁNH THƠ
Giai đoạn giao thời ba mươi năm đầu thế kỷ XX đã chứng kiến sự thay đổi vị trí xã hội của người phụ nữ. Từ “chốn phòng the”, một số người phụ nữ có tri thức và tư tưởng tiến bộ đã mạnh dạn vươn ra ngoài xã hội, bộc lộ suy nghĩ, chủ kiến riêng và thể hiện con người cá nhân của mình.
PHẠM PHÚ PHONG
Trong vô tận (Nxb. Trẻ, 2019) là cuốn sách thứ mười ba và là tiểu thuyết thứ tư của nhà văn Vĩnh Quyền.