Văn tế khóc vợ

15:39 06/05/2013

NGUYỄN PHÚC VĨNH BA

Lời người viết: Biết tin hiền thê của người bạn vong niên qua đời quá muộn, ghé thăm và nghe bạn than thở nỗi lòng, bỉ nhân không cầm được lòng xúc động. Thấy ông lão tám mươi rưng rưng khóc vợ, kể lể bao vui buồn ngày còn đủ vợ chồng, bỉ nhân xao xuyến vô cùng. Thay bạn, bỉ nhân viết quấy quá đôi hàng văn tế, chỉ mong nói hộ bạn nỗi niềm đau khổ đó. Than ôi! Chữ nghĩa cũng chỉ dành cho người sống đọc. Còn người đã khuất thì liệu có biết thấu chăng?

Ảnh: internet

Than ôi!
Thiên địa vô tình,
Tử sinh hữu phận.
Mình ra đi đã đành mệnh số, non xanh nước biếc thong dong,
Anh ở lại cố nén bi thương, nhà quạnh ngõ buồn ngớ ngẩn.
Cõi lòng như muối xát, chỗ xót chỗ đau,
Đôi mắt tựa ớt xông, giọt dài giọt ngắn.
Rồi mai mốt, mặc mấy kẻ lao xao xuôi ngược, phố thị vui đông,
Riêng nơi đây, chỉ có anh lận bận tới lui, sân vườn tẻ vắng.


Nhớ mình xưa,
Con cháu nòi ái quốc, vì phải nuôi mẹ già ôn mệ, cam tâm đành ở chốn quê nhà,
Cha anh gốc trung kiên, ra đi cùng đồng đội anh em, hăng hái quyết theo cờ cách mạng.
Nhà thiêu cửa cháy, giặc Pháp đốt tan,
Đồng trống làng hoang, dân Nam lánh nạn.
Lúc hái rau, lúc cắt cỏ, thất tha vất vưởng qua ngày,
Khi bắt ốc, khi mò đam, thui thủi đọa đày trót tháng.
Nào làm thuê, nào hàng xáo, cay đắng miếng cơm kiếm sống, khốn khổ bao kỳ,
Rồi ở đợ, rồi bán hàng, rách lành manh áo che thân, nhọc nhằn mấy chặng.
Mười mấy tuổi xông gai đạp gốc, ra sức bòn chài,
Ba miệng ăn trông sớm chờ chiều, dám đâu chểnh mảng.
Giành chính quyền toàn dân nổi dậy, cha trở về rồi cha lại lên khu,
Vỡ mặt trận bộ đội rút lui, anh lên núi và anh đi mất dạng.
Trời ơi! Lắm nỗi chua cay,
Đất hỡi! Biết bao xót đắng.
Trung trinh vẫn giữ, làm hòm thư sống chết, nguy hiểm đâu màng,
Chí khí không lay, tiếp lương thực giấu đùm, gian lao chẳng quản.
Một lòng theo tổ chức, sợ chi mật thám chằm hăm,
Trọn kiếp quyết đấu tranh, liều với cường quyền ngạo mạn.

Giơ ne vơ ký kết,
Lén lút giao liên địch vận, thân sắt đồng chốn Thừa Phủ đòn roi,
Âm thầm tình báo kinh tài, cánh câu nhạn nơi Trị Thiên gió nắng.
Mình Phú Lộc khó ngăn luồng bố ráp, xui sao sa lưới bẫy giăng,
Anh Hương Trà không thoát đợt vây lùng, rủi thật rơi vòng tra tấn.
Thân dẫu có đau vì kìm khảo, cùm tròng,
Miệng vẫn không khai dù điện tra, nước trấn.
Thức ăn thì rau héo, cơm siu,
Nơi ở ấy sàn trơn, vách ẩm.
Tình đồng chí chốn lao tù tủi nhục, anh nương mình giữ vững một niềm tin,
Duyên ái tình nơi địa ngục tối tăm, mình tựa anh thêm dày bao nỗi hận.
Mơ ngày mai thoát khỏi xiềng lao lý, bền gan son sắt lập công,
Hẹn rồi đây nhập lại cuộc đấu tranh, quyết chí gan lì xung trận.


May thay,
Bứt được gông cùm,
Lọt qua thẩm vấn.
Năm 57 thoát đời tù ngục, một thân mà bươn chải tảo tần,
Năm 63 nên nghĩa phu thê, hai đứa cứ miệt mài cần mẫn.
Về An Cựu, mình bán buôn đủ thứ, hòng gạt bầy mật vụ truy tra,
Nơi Exxo
*, anh làm lụng qua ngày, vẫn theo lời đảng đoàn hướng dẫn.
Làm nhà mua đất, nuôi cái con học tập đàng hoàng,
Tậu máy thuê người, tạo cơ sở làm ăn sòng phẳng.
Năm 68 nhà tan vì pháo đạn, xót xa ơi, số phận gặp hồi đen,
Qua 70 tiệm dựng lại quy mô, may mắn quá, cơ may tìm tay trắng.
Cũng sức mình lo toan khuya sớm, trông nom sổ sách chi li,
Thêm công anh tất bật hôm mai, điều động thợ thầy chóng vánh.
Dẫu giàu sang không chút se sua,
Dù vất vả đâu hề chán nản.
Đôi chồng vợ chung lưng đấu cật, xa phường gần phố, trông những ganh ghen,
Lũ con thơ sát cánh chen vai, trong xóm ngoài thôn, thấy đều khen tặng.


Xuân 75 về,
Cùng cả nước chung chia khổ sướng, mặc dẫu rằng chỉ áo vải quần xô,
Với toàn dân gìn giữ vững bền, ăn chi sá vài rổ khoai củ sắn.
Chuyển tới bán cửa hàng chất đốt, bán cà phê rang tẩm, ngày ngày lo mậu dịch lăng xăng,
Xoay qua làm cắt dán áo mưa, làm kem giặt chế pha, tháng tháng nhập quốc doanh đều đặn.
Nuôi gà, ấp trứng, bỏ công cùng bỏ sức, trời xót thương ủng hộ được lời,
Trồng lúa, chăn bò, ra vốn với ra tiền, đất cảm mến trợ phù nên thắng.
Sướng thật sướng, sáu con đều thành đạt, con nhờ đức mẹ, mãn nguyện ước ao.
Mừng quá mừng, trăm việc thảy chu toàn, việc có tay mình, chuyên tâm lo lắng.
Huân chương nhà nước tặng, hai ba cái treo cao,
Gia nghiệp chúng ta xây, chín mười lần tỏ rạng.


Hỡi ơi!
Thấm thoắt đã qua thời gian khổ, toàn gia đình chung hưởng quãng đời vui,
Oan nghiệt sao đến buổi hưu nhàn, chỉ một mình riêng mang căn bệnh nặng.
Tìm thuốc đã chín nơi mười chốn, bôn ba xông xáo, anh đây đâu sá nhọc nhằn,
Rước thầy đủ bốn hướng tám phương, bươn bả cầu mời, con chúng một niềm sốt sắng.
Chỉ mong rằng mình chóng được khoẻ lành,
Ai hay được anh sớm đành lẻ bóng.
Tình nồng nghĩa thắm, năm mươi năm khăng khít, bóng dáng mình in sâu,
Gối chiếc chăn đơn, còn một kiếp lạc loài, cõi lòng anh chết lặng.


Ơi mình ơi,
Kể mấy cho vừa,
Nói sao hết đặng,
Lầu cao cổng đẹp, chăn êm nệm ấm, ai hưởng cho đây?
Con giỏi cháu ngoan, chồng tốt dâu hiền, mình sao đành đoạn?
Con từ nay không còn thấy mẹ, nhớ bao nhiêu nhớ chỉ than dài,
Cháu mai mốt sẽ chẳng gặp bà, buồn có mấy buồn đành thở ngắn.
Tiễn mình đi, này chồng này con này dâu này cháu, đầm đìa nước mắt hai hàng,
Dìu anh bước, kìa em kìa chị kìa bạn kìa bè, thất thểu đường quê mấy chặng.
Thôi cũng hết phận đời lao nhọc, mong mình nay sạch nợ trần gian,
Thế là xong số kiếp đa đoan, riêng anh mãi nặng lòng bi oán.


Mình ơi,
Anh biết từ đây,
Mình đà xa vắng.
Hồn có linh nghe
Mấy lời ai vãn.


-------------
* Exxo: Tên một đại lý xăng dầu trước 1975.

Tháng 7/2012

N.P.V.B
(SDB8/3-13)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LTS: ...Với gần 30 công trình nghiên cứu, lý luận - phê bình văn chương có giá trị khoa học, GS. Hà Minh Đức đã trải qua một đời lao lực và giảng dạy để sống, yêu, say và viết... Và không chỉ có thế, GS.Hà Minh Đức còn là tác giả của 3 tập bút ký và 4 tập thơ giàu sự sống thật, giàu phẩm chất nhân văn và thi sĩ.Thơ Hà Minh Đức nồng ấm tình đời, tình người; nhưng với tình yêu, ẩn chứa bên trong buồn thương và đơn độc. Nỗi sầu xứ và những hoài niệm ngày xanh qua từng “giọt nghĩ trong đêm” của tác giả đã làm nên những dư âm buồn xa và những thao thức thơ chăng mắc lòng người.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu chùm thơ mới của tác giả.

  • Ngọc Tuyết - Ngô Thiên Thu - Tuệ Nguyên - Phạm Trường Thi - Lưu Xông Pha

  • Lâm Thị Mỹ Dạ - Lê Khánh Mai - Thu Nguyệt - Phan Thị Thanh Nhàn  - Song Hảo - Nguyễn Thị Hồng - Trần Thị Trường - Phạm Thị Anh Nga - Thuý Nga - Châu Thu Hà - Phan Dịu Hiền - Dương Bích Hà - Lê Hoàng Anh - Ninh Giang Thu Cúc - Lê Minh Nguyệt - Nguyễn Đăng Chế

  • Sinh tại Ngọc Hà, Ba Đình, Hà NộiHội viên Hội Nhà văn Hà NộiCác tập thơ đã in:                + Gửi con lời ru                + Em đi ngang chiều gió                + Cỏ mặt trờiCác giải thưởng:                + Giải nhất cuộc thi thơ Trung tâm Văn hoá Q 3, TP.HCM                + Giải ba cuộc thi thơ lục bát Tuần báo Văn nghệ

  • Trần Hoàng Phố  - Vũ Thị Khương - Trần Hữu Lục - Lê Tấn Quỳnh - Bùi Đức Vinh - Nguyễn Công Bình - Ngô Cang - Văn Lợi - Hà Huy Hoàng - Nguyễn Ngọc Hạnh

  • Thần Đinh uy nghiêm kiêu dũngThanh tao tạc dáng bên trờiĐế vương ngầm ghen thế núiVung roi phạt BÁT NGHĨA SƠN...

  • Họ và tên đầy đủ: Nguyễn Công Nam - Sinh 1953Bút danh: Công NamQuê: Hùng Tiến - Nam Đàn - Nghệ AnLà hội viên HỘI VĂN HỌC NGHỆ THUẬT HẢI PHÒNGTác phẩm đã xuất bản: - TIẾNG VỌNG ĐÊM MƯA -Thơ (NXB Hải Phòng). - Giải thưởng cuộc thi thơ 2001 - 2003 của TCSH.

  • Trên bầu trời, một vì sao đỏ chóiRót ánh sáng vào tháng ngày hấp hốiMáu sao rơiGiọt lịm lưng thềmCây nến tim tôi bùng cháy...

  • Nguyễn Sĩ Cứ - Võ Thị Hồng Tơ - Hoàng Cầm - Đào Duy Anh - Hoàng Ly Thạch Thảo - Võ Văn Luyến - Phạm Duy Tân

  • Tên khai sinh: Vương Oanh NhiSinh năm 1947 tại Hải Phòng.Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam .Học viên khoá IV Trường viết văn Nguyễn DuTác phẩm chính: + Lối nhỏ (1988)           + Bài mẫu giáo sáng thế(1993)

  • CHÂU NHONăm 1968 tại mặt trận biên giới Việt - Lào, trung đội chúng tôi sau 3 ngày quần nhau với địch, 3 đồng chí hy sinh và trung đội trưởng bị thương nặng. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, đêm đó trung đội trưởng đã “nói chuyện với người yêu” trong cơn mê sảng. Xúc động trước tình cảm đó, tôi đã chuyển lời của người liệt sĩ thành bài thơ gửi về cho người yêu của anh ở hậu phương là cô Lê Thị Ánh, giáo viên cấp I ở một bản thuộc huyện Quế Phong, Nghệ An.

  • Hà Duyên - Nguyễn Thụy Kha - Nguyễn Thanh Văn - Nguyễn Văn Quang - Phạm Xuân Dũng - Lê Tuấn Lộc - Hồng Thị Vinh

  • Phạm Tấn Hầu - Lê Ngã Lễ - Lương Ngọc An - Lê Bá Thự - Phạm Thị Anh Nga - Đoàn Mạnh Phương - Trịnh Văn - Nhất Lâm - Hoàng Lê Ân.

  • NGUYỄN VĂN DINHCâu thơ BácThuở chăn đơn Bác đắp trong hangỐc suối, cơm ngô, nõn chuối ngànThơ Người vẫn viết cho ta đọc"Cuộc đời cách mạng thật là sang".

  • Nguyễn Trọng Tạo - Diệp Minh Luyện - Nguyễn Việt Tư - Lê Viết Xuân - Trần Lan Vinh - Mai Văn Phấn

  • Trương Đăng Dung - Văn Công Hùng - Nguyễn Thụy Kha - Văn Công Toàn - Vĩnh Nguyên - Phan Tường Hy

  • Vũ Thị Huyền - Công Nam - Nguyễn Cảnh Tuấn - Đặng Hiển - Trần Đôn - Nguyễn Văn Hùng - Nguyễn Thị Thái

  • LTS: Binh đoàn Hương Giang thành lập ngày 17.4.1974, mang tên dòng sông thơ mộng. Sau khi giải phóng Huế, Binh đoàn tham gia chiến dịch thống nhất Tổ quốc, tiến thẳng vào Dinh Độc Lập ngày 30.4.1975. Sống lại những ngày tháng oai hùng đó, Nguyễn Trọng Bính, một sỹ quan của Binh đoàn đã viết trường ca “Nhật ký dòng sông” năm 2008. Tác phẩm này vừa được Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam xếp loại xuất sắc trong đợt sơ kết Cuộc vận động sáng tác tiểu thuyết, trường ca về đề tài Chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang nhân dân 2006 - 2008. Dưới đây, Sông Hương xin giới thiệu cùng bạn đọc một trong số 11 chương của trường ca này.

  • CAO XUÂN THÁISinh năm: 1948 - Tại Vương quốc Thái LanVề nước năm 1960Quê quán: Hoa Lư - Ninh BìnhHội viên Hội Nhà văn Việt NamPhó Chủ tịch Hội VHNT Hà Giang - Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Hà Giang.

  • Nguyễn Đông Nhật - Chử Văn Long - Lê Hoàng Anh - Trịnh Lữ - Đào Trung Việt - Nguyễn Trần Thái - Nguyễn Thị Anh Đào - Nguyễn Loan - Nguyễn Văn Quang