Văn học trẻ và vấn đề đầu tư bồi dưỡng lực lượng trẻ trong văn học

10:44 15/10/2008
THẠCH QUỲTrước hết, tôi xin liệt kê đơn thuần về tuổi tác các nhà văn.

1. Nhà văn Nguyên Hồng viết “Bỉ vỏ” năm chưa đầy 17 tuổi. 2. Nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp mất năm 22 tuổi để lại cho ta một tập thơ, trong đó có bài Chùa Hương nổi tiếng. 3. Nhà văn Vũ Trọng Phụng mất năm 28 tuổi, để lại 10 cuốn sách bao gồm tiểu thuyết, ký sự.... ông xứng danh là một nhà văn lớn trong nền văn học hiện đại của chúng ta. 4. Nhà văn Nam Cao mất năm 36 tuổi, các tác phẩm Chí Phèo, Lão Hạc, Sống mòn đã ra đời khi nhà văn chưa đầy 30 tuổi. 5. Các nhà thơ Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Huy Cận, Thế Lữ, Hàn Mặc Tử... đều rất nổi tiếng trên văn đàn khi tuổi đời của họ chưa tròn số 25. Tập thơ “Bức tranh quê” Tự lực văn đoàn trao giải thưởng cho nữ sĩ Anh Thơ khi bà chưa tròn 16 tuổi. Ở thời ta, chú Trần Đăng Khoa trình làng tập thơ “Góc sân và khoảng trời” khi tác giả vừa tròn 8 tuổi. Các nhà thơ, nhà văn thời chống Mỹ, sinh sau năm 1940, hầu hết đã nổi tiếng, trước năm 1970, họ làm chủ tiếng nói văn học của một thời đại. Nhìn ngược lên theo tiến trình lịch sử của Văn học nước nhà từ Trạng Hiền, Lê Quý Đôn, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn hay nhìn rộng ra bản đồ văn học thế giới, ta luôn gặp các tác phẩm văn học nổi tiếng của các nhà thơ nhà văn trẻ tuổi. Chúng ta thường gọi các nhà văn từ 16 đến 30 tuổi là những nhà văn trẻ. Nhưng hãy dè chừng, kinh nghiệm văn học đã chỉ rõ rằng đây chính là lứa tuổi của thành công và sáng tạo. Nói thế để chúng ta đặt niềm tin đúng đắn của mình vào thế hệ ấy. Tuy nhiên, tuổi trẻ chưa hẳn đã đồng nghĩa với văn học trẻ. Gớt đã viết “Phaoxtơ” tác phẩm bất hủ của mình ở tuổi ngoại 80.

Vấn đề văn học trẻ, thực chất là vấn đề các thế hệ nối tiếp trong tiến trình phát triển của lịch sử văn học. Nếu trong đời sống, trong các mối quan hệ xã hội có vấn đề “CHA và CON” thì tương tự, trong văn học có vấn đề văn học trẻ. Chúng ta biết, tình yêu thương của cha mẹ đối với con cái là vô bờ bến nhưng cha mẹ có hiểu biết, có cảm thông với con cái hay không lại là một vấn đề lớn. Các nhà văn cũng vậy, càng tâm huyết với văn học càng đặt nhiều hy vọng vào thế hệ các nhà văn trẻ. Vấn đề nhà văn trẻ, văn học trẻ là vấn đề kế thừa và phát triển của lịch sử văn học, không riêng thời đại nào. Văn học Việt từ thời Lý đến Hậu Lê chừng như ít nổi cộm các vấn đề của văn học trẻ nếu đem so sánh với lịch sử văn chương cuối Lê đầu Nguyễn. Các bước nhảy vọt trong lịch sử văn học do các nhà văn trẻ tạo ra thường để lại những giây lát ngỡ ngàng như là mâu thuẫn trong nhận thức văn học của các thế hệ. Nếu Thu cảm, Thu điếu, Thu vịnh của Nguyễn Khuyến chưa phá vỡ cái vỏ bọc âm sắc đăng đối nhịp điệu Đường thi thì “Cảm thu” của Tản Đà đã là một giọng điệu hoàn toàn khác hẳn.
Sông thu bạc
Trăng thu vàng
Khói thu xây thành
Lá thu rơi rụng đầu ghềnh...

Nhưng rồi Tản Đà hẳn phải ngỡ ngàng trước quan niệm về thơ của Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mạc Tử và đặc biệt khác thường là quan niệm của Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Vĩ. Có lúc tôi ngỡ rằng Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà khó lòng mà chấp nhận cái vồ vập “miệng cười, tay riết”, trong thơ Xuân Diệu và những cú say cả tâm hồn lẫn thể xác trong thơ Vũ Hoàng Chương. Cũng như vậy, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận phải “lột xác” mình mới tập sự được thơ kháng chiến. Rồi thơ kháng chiến chống Mỹ lại vượt khỏi thơ kháng chiến chống Pháp cả một tầm cao trí tuệ. Sự ngỡ ngàng trong nhận thức văn học của thế hệ này với thế hệ khác là dấu hiệu đáng mừng trong tiến trình phát triển của lịch sử văn hóa dân tộc.

Ngày nay, sau năm 1975 đặc biệt là sau 1980, một thế hệ mới đã xuất hiện trong tiến trình đổi mới văn học của chúng ta. Đã có tiếng nói để gây tranh cãi. Đã có sự ngỡ ngàng trong quan niệm văn học của các thế hệ. Tuy chưa có thành công xuất sắc ở các tác phẩm cụ thể, tác giả cụ thể  nhưng tiếng nói mới mẻ ấy đã có sức vang, sức dội trên văn đàn, chừng như đã hình thành nên hệ thống ngôn ngữ khác thường của nó. Những Vi Thùy Linh, Văn Cầm Hải trong thơ, Nguyễn Ngọc Tư và nhiều nhiều bạn trẻ khác trong văn đã có con đường đi riêng của họ. Tôi tin vào câu nói của Lỗ Tấn: “Mặt đất vốn dĩ không đường, người ta đi mãi sẽ thành đường”. Nhưng tiếc thay, có nhiều bạn trẻ đã vượt tuổi 30 vẫn chỉ có tiếng tăm là kẻ mở đường chứ chưa đi đến nơi cần đến ấy là tác phẩm văn học đích thực mới mẻ - cái chứng chỉ thành công cho con đường mình đã chọn.

Hình như các bạn trẻ vừa chậm chạp lại vừa nóng vội. Chậm chạp trước thành công, nóng vội trước danh tiếng không phải là sự lựa chọn tối ưu của một nhà văn. Nhà văn là tác phẩm. Tác phẩm là hộ chiếu, là chứng minh thư của nhà văn. Nhà văn hãy cầm lấy nó để đi qua các cửa trần gian, thiên đường, địa ngục đều không cần thị thực. Ai cũng biết nội lực của nhà văn quyết định sự nghiệp của nhà văn đó. Cái gì làm nên nội lực của nhà văn thì nhà văn cần tự biết!

Tuy vậy, sự hỗ trợ, giúp đỡ của các tổ chức xã hội nghề nghiệp đối với các nhà văn là rất cần thiết. Các nhà văn lớp trước, đặc biệt là các biên tập viên, các vị quan chức ở các nhà xuất bản, báo chí rất nên có tư duy mở, thông thoáng trong quan niệm văn học hiện đại để tạo điều kiện cho các tác phẩm mới được ra mắt công chúng. Tôi nghe nói tập thơ Vi Thùy Linh có 3 nhà xuất bản từ chối, phải om lại 3 năm, phải thay tên tác phẩm mới được in ra. Khi viết những dòng này, trước mắt tôi có tập “Đồng Tử” của Vi Thùy Linh. Với trình độ chính trị còn nhiều hạn chế của bản thân, tôi lấy làm khó hiểu vì sao các nhà xuất bản lại khó xử với tập thơ này như vậy? Ý kiến tiếp theo của tôi là các nhà phê bình văn học nên để tâm đọc và giới thiệu cái hay, cái dở, cái mới lạ, cái ngây ngô, cái kỳ thú trong các tác phẩm trẻ. Những tác phẩm có vấn đề cần được tranh luận công khai trên báo chí. Nhiều người kêu thơ trẻ khó hiểu, thậm chí là không có cái hiểu để hiểu. Theo ý tôi, hiểu thơ theo nghĩa chữ là cách hiểu thơ ở cấp thấp nhất. Cái siêu của thơ là ở chỗ câu thơ, bài thơ tạo ra một trường cảm nhận rồi người đọc, người nghe gặt hái cảm xúc của mình từ trường cảm nhận do ngôn từ và các cấu trúc của nó tạo ra ở câu thơ, bài thơ đó. Vì thế, nếu thơ trẻ còn khó hiểu thì không chỉ người viết xét lại mà người đọc cũng nên lục soát lại khả năng cảm nhận văn học của chính mình nữa! Như trên đã nói, cái mới bao giờ cũng gây ra một sự ngỡ ngàng. Chúng ta không nên biến sự ngỡ ngàng thành sự tẩy chay đối với những cái quá mới, quá lạ trong văn học trẻ.

Trong những năm gần đây, Hội Liên hiệp, Hội Nhà văn, các Hội Văn học Nghệ thuật địa phương có chủ trương đầu tư cho tác phẩm văn học, mở các trại viết để thúc đẩy công việc sáng tác của các nhà văn. Cần nhìn rõ sự bất cập và yếu kém trong việc đầu tư tác phẩm và mở trại sáng tác của các Hội nhất là Hội địa phương. Đầu tư nhưng không có tác phẩm. Mở trại nhưng không chọn lọc tác giả. Đầu tư và mở trại còn nặng về tính chất mặt trận, tính chất “ăn cho đều kêu cho sõi”, bênh vực sự công bằng kỳ quái; sợ dư luận, sợ thắc mắc không nhắm trúng hiệu quả của công việc là sự ra đời của các tác phẩm văn học có chất lượng. Do điều kiện hình thành và phát triển từ thời bao cấp, duy ý chí, các Hội văn học địa phương túa vào tổ chức của mình đông đảo và dài dặc danh sách hội viên. Không ít hội viên trình độ hiểu biết và năng lực sáng tạo có thể nói là còn ở mức bi hài. Điều đó gây khó khăn lớn cho những người cầm chịch trong việc chia phần cái gói giữa làng khi bàn đến việc đầu tư và mở trại sáng tác. Trại sáng tác với một số người đã biến thành trại an dưỡng, trại tham quan, du lịch. Hội bỏ tiền đầu tư cho tác phẩm lớn nhưng trong văn học chỉ thấy xuất hiện những tác phẩm làng nhàng, nhạt nhẽo. Nên chăng, ở các Hội địa phương, ngoài ban lãnh đạo cần thành lập một hội đồng tư vấn có năng lực thẩm định tác phẩm giúp cho việc đầu tư và mở trại sáng tác có hiệu quả hơn.

Với các nhà văn trẻ, những người thực sự có tâm huyết, thực sự có cái gan lì, bất chấp mọi trở ngại, kiên trì con đường văn học chông gai và gian khổ, chúng ta cần giúp đỡ họ cả tinh thần, vật chất, nghề nghiệp để họ viết được những tác phẩm lớn như niềm mong đợi của chúng ta.
Có 3 điều cụ thể sau đây, tôi xin đề nghị.
1. Cần có thư viện tác phẩm lớn của văn học thế giới bao gồm văn, thơ, lý luận phê bình, các tác phẩm mới nhất, hiện đại nhất bằng các thứ tiếng Anh, Pháp, Nga, Bồ Đào Nha và Trung Quốc. Các tác giả trẻ cần tiếp xúc trực tiếp với các tác phẩm đó không thông qua bản dịch. Sách cho mượn trực tiếp hoặc thông qua đường dây bưu điện để đến với các tác giả trẻ. Các tác giả trẻ cần nối mạng trực tiếp đọc các tác phẩm lớn.
2. Mời các nhà văn lớn của thế giới tiếp xúc với các nhà văn trẻ Việt Nam như ngành tin học đã mời Binghết, ngành bóng đá đã mời Maradona. Giúp các nhà văn trẻ tiếp xúc với văn học thế giới càng nhiều càng tốt.
3. Nếu nhà văn viết được tác phẩm lớn, Hội cần có hướng dành tiền đầu tư để in tác phẩm, dịch tác phẩm và quảng bá các tác phẩm trên mạng, trên quầy sáng trung tâm tại thủ đô các nước.

Nhà văn nào có chí lớn, có tài lớn cần được ưu đãi đặc biệt, ít nhất cũng có được đời sống ngang hàng một cầu thủ bóng đá. Nhà nước nên có chính sách ưu tiên ưu đãi cho các tài năng văn học phù hợp với tiến trình dân chủ trước khi thả nổi văn chương cho cuộc sống tự nhiên trong xã hội kinh tế thị trường.
Văn chương là của tài năng. Nội lực nhà văn quyết định sự nghiệp của nhà văn đó. Sự đầu tư của Nhà nước, của các Hội công minh nhất là đầu tư đúng nơi, đúng chốn, đúng hiệu quả để góp phần thúc đẩy nền văn học của nước nhà tiến lên một bước mới trong cuộc hội nhập toàn cầu của nền văn hoá các dân tộc...
T.Q

(nguồn: TCSH số 222 - 08 - 2007)

 



Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Tô Hoài, trong hơn 60 năm viết, thuộc số người hiếm hoi có khả năng thâm nhập rất nhanh và rất sâu vào những vùng đất mới. Đây là kết quả sự hô ứng, sự hội nhập đến từ hai phía: phía chuẩn bị chủ quan của người viết và phía yêu cầu khách quan của công chúng, của cách mạng.

  • Sóng đôi (bài tỉ, sắp hàng ngang nhau) là phép tu từ cổ xưa trong đó các bộ phận giống nhau của câu được lặp lại trong câu hay đoạn văn, thơ, làm cho cấu trúc lời văn được chỉnh tề, rõ rệt, nhất quán, đồng thời do sự lặp lại mà tạo thành nhịp điệu mạnh mẽ, như thác nước từ trên cao đổ xuống, hình thành khí thế của lời văn lời thơ.

  • LTS: Trên Sông Hương số tháng 10 - 2007, chúng tôi đã giới thiệu về công trình “La littérature en péril” (Nền văn chương đang lâm nguy) củaTzvetan Todorov - nhà triết học, mỹ học và nhà lý luận văn học nổi tiếng của Pháp.

  • Theo định nghĩa hiện nay, trường ca là một tác phẩm thơ có dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình.

  • (Phát biểu ý kiến góp phần vào nội dung Đề án Nghị quyết về “Xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH...” của Ban Tuyên giáo Trung ương).

  • 1. Cuốn sách về nhà tình báo nổi tiếng - anh hùng Phạm Xuân Ẩn (PXÂ) của giáo sư sử học người Mỹ Larry Berman, khi được xuất bản bằng tiếng Việt có thêm phụ đề “Cuộc đời hai mặt không thể tin được của Phạm Xuân Ẩn”.

  • Lâm Thị Mỹ Dạ là một nhà thơ trưởng thành trong phong trào chống Mỹ. Nhắc đến thơ chị, người ta thường nhớ đến những bài thơ mang đậm âm hưởng sử thi như Khoảng trời, hố bom, hoặc dịu dàng, nữ tính nhưng không kém phần thẳng thắn như Anh đừng khen em, hoặc nồng cháy yêu đương như Không đề…

  • "Không có cách khác, thưa ngài. Tất cả cái gì không phải văn xuôi thì là thơ; và tất cả cái gì không phải thơ thì là văn xuôi"(Gã tư sản quý tộc, Molière). Trên đây là định nghĩa "thâm thúy" của thầy dạy triết cho ông Jourdain, người mà đã hơn bốn mươi năm trời vẫn sai bảo người ăn kẻ làm, vẫn hằng ngày trò chuyện với mọi người bằng "văn xuôi" mà không tự biết.

  • Trong những vấn đề mới của lý luận văn học hiện nay, các nhà nghiên cứu thường nói đến chức năng giao tiếp của văn học. Khi nói văn học có chức năng giao tiếp thì cũng có nghĩa cho rằng văn học ở ngoài giao tiếp.

  • PHONG LÊ …Không đầy hai thập niên đầu thế kỷ, trong những thức nhận mới của đất nước, nền văn chương- học thuật của dân tộc bỗng chuyển sang một mô hình khác- mô hình quốc ngữ, với sức chuyên chở và phổ cập được trao cho phong trào báo chí, xuất bản bỗng lần đầu tiên xuất hiện và sớm trở nên sôi nổi như chưa bào giờ có trong ngót nghìn năm nền văn chương học thuật cổ truyền…

  • Vừa qua bà văn sĩ Nguyễn Khoa Bội Lan ở Phú Thượng (Huế) đột ngột gọi dây nói cho tôi than phiền về những chi tiết sai với lịch sử trong bài Phạn Bội Châu với Hương Giang thư quán của  Chu Trọng Huyến đăng trên Tạp chí Sông Hương số 116 (10. 1998)

  • Chúng tôi cho rằng trong lịch sử văn học Việt chỉ có Chí Phèo mới là một hình tượng đích thực. Chí Phèo là hiện thân của sự tồn tại vĩnh cửu của bản ngã VÔ CAN. 

  • Đó là bản đàn Thúy Kiều đàn cho Kim Trọng nghe lần cuối trong ngày tái hợp. Bản đàn chứa đầy những mâu thuẫn nghịch lý, bởi vì cũng như bao lần trước, lần này vẫn là bản “bạc mệnh” năm xưa. Nhập hồn Kim Trọng, Nguyễn Du bình luận:                Lọt tai nghe suốt năm cung                Tiếng nào là chẳng não nùng (*) xôn xaoTác quyền và nghệ nhân biểu diễn vẫn là nàng Kiều chứ không còn ai khác, nhưng thật lạ:                Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy?Kim Trọng, tri âm và trong cuộc vẫn không khỏi "hồ đồ", huống gì chúng ta, những người đến sau Nguyễn Du muộn hơn hai thế kỷ? 

  • Có thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc. 

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Đội ngũ các nhà văn trẻ mà tôi nói tới trong bài viết này là những cây bút sinh ra sau 1975. Biết rằng trong văn chương, khái niệm trẻ/ già chỉ là một khái niệm có tính “tương đối” vì già hay trẻ đều phải nỗ lực để tạo nên những tác phẩm xuất sắc, vị trí của họ phải được đánh giá thông qua tác phẩm chứ không phải từ những chiếu cố ngoài văn học. 

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTrong văn chương, cách gọi “chủ nghĩa” này hay “chủ nghĩa” khác đều không ổn, thậm chí có hại vì vô hình trung như thế là cách buộc nhà văn theo “một con đường” vạch sẵn mà từ hơn nửa thế kỷ trước, Hải Triều đã lên án...