Văn học như những giá trị ngoại biên

15:00 03/04/2020

PHAN TRỌNG HOÀNG LINH  

Trong một tiểu luận bàn về Ngoại biên hóa trong tiến trình văn học Việt Nam đương đại, học giả Trần Đình Sử xem “ngoại biên hóa chủ yếu là phương thức tồn tại thông thường của văn học”.

Mọi sáng tác, trào lưu và thể loại văn học đều xuất phát từ ngoại biên, rồi theo thời gian tiến dần vào trung tâm. Đọc văn chính là hành trình ngoại biên hóa trong tương quan với ý đồ khởi nguyên của tác giả. Công trình nghiên cứu Những khu vực văn học ngoại biên (Nxb. Hội Nhà văn và Tao đàn, 2020) vừa được ra mắt của Phan Tuấn Anh là sự kiện đầy ý nghĩa, thể hiện ý thức chủ động của người làm công tác lý luận, phê bình trong việc tiên phong cất lên tiếng nói đối thoại cho những giá trị ngoại biên.

Cuốn sách mở đầu bằng tiểu luận đề dẫn về lý thuyết ngoại biên, cụ thể là giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa trung tâm và ngoại biên trên ba bình diện: đời sống, triết học và văn học. Giải quyết mối quan hệ trung tâm - ngoại biên trong văn học, Phan Tuấn Anh đặt trọng tâm ở phương diện lý thuyết và cho thấy sở trường bao quát các trường phái lý luận văn học từ thế kỷ XX có bàn về khái niệm ngoại biên như hình thức luận, phê bình mới, mỹ học tiếp nhận, giải cấu trúc luận, lý thuyết đa hệ thống, lý thuyết văn hóa trào tiếu dân gian… Sự thay đổi trong tương quan vị thế giữa trung tâm và ngoại biên được tác giả gắn với sự vận động của hệ hình tư duy từ tiền hiện đại đến hiện đại và hậu hiện đại. Tư duy hậu hiện đại dựa trên mô hình cân bằng giữa trung tâm và ngoại biên chính là hệ hình tư duy tiêu biểu của thời đại chúng ta đang sống.

Từ đó, tác giả triển khai 6 tiểu luận trải rộng trên nhiều lĩnh vực văn học. Cái chung của 6 tiểu luận này, hiển nhiên, đều có đối tượng là những hiện tượng văn học ngoại biên, hay ít nhất, đã từng bị cách ly ở vùng ngoại biên: văn học mạng/ máy tính, hư cấu lịch sử, thơ tân hình thức và truyện tranh. Trong số này, văn học mạng/ máy tính và truyện tranh là hai khu vực, có thể khẳng định không cần băn khoăn, Phan Tuấn Anh là người đầu tiên ở nước ta có những bước đi đầy hứng khởi đặt nền tảng lý luận về thể loại.

Năm 2007, Khoa Ngữ văn Trường Đại học Khoa học Huế hoàn toàn ngạc nhiên và lạ lẫm khi một sinh viên chọn đề tài khóa luận tốt nghiệp về Truyện tranh và truyện tranh Nhật Bản, ngay sau đó đề tài được tiếp tục phát triển và đạt giải nhì cuộc thi Sinh viên nghiên cứu khoa học toàn quốc. Đây chính là thành quả khởi điểm đầy ý nghĩa khích lệ cho chặng đường mười năm nghiên cứu tiếp theo của Phan Tuấn Anh. Phần tinh túy nhất của đề tài ấy được tác giả đưa vào cuốn sách vừa xuất bản: vấn đề thi pháp truyện tranh và vấn đề tiếp nhận truyện tranh trong bối cảnh hậu hiện đại. Nhìn vào hệ thống luận điểm được anh phân tích và diễn giải, hẳn chúng ta phải thừa nhận rằng, truyện tranh thực sự là đối tượng cần phải được nghiên cứu cẩn trọng, đặc biệt ở đất nước mà thể loại này có vai trò thiết yếu trong việc bồi đắp tuổi thơ và định hình nhân cách của thế hệ trẻ như Việt Nam, dù dư luận xã hội có chấp nhận thực tế ấy hay không.

Đặc biệt giá trị và tạo được nhiều sức lôi cuốn nhất trong toàn bộ cuốn sách là loạt tiểu luận về văn học mạng/ máy tính. Lý luận về một nền văn học mạng được Phan Tuấn Anh kiến tạo trên cơ sở tác động của những thiết chế truyền thông đa phương tiện lên đời sống vật chất và tinh thần của xã hội hậu hiện đại, mà dấu mốc của nó là sự xuất hiện của máy vi tính và mạng internet. Hệ quả là sự bùng nổ truyền thông và sự ra đời của một ý thức hệ mới như xác tín của Ph. Breton và S. Proulx. Điểm cốt lõi của đời sống văn học dưới các thiết chế truyền thông đa phương tiện là nó được xây dựng trên nền tảng của hệ hình ngôn ngữ mới: ngôn ngữ nhị phân. Một khí quyển sinh tồn mới của văn học được khởi sinh trên mọi phương diện. Đó vừa là thách thức to lớn vừa là tiềm năng vô hạn cho lực lượng sáng tác và lực lượng nghiên cứu văn học hiện nay. Vậy, một tác phẩm như thế nào thì được xem là đại diện của văn học mạng/ máy tính? Câu trả lời được Phan Tuấn Anh cụ thể hóa trên hai hiện tượng kỳ thú nhưng cũng vô cùng dị biệt của văn chương đương đại: Anh chàng xe điện của Hitori Nakano và 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] của Đặng Thân. Trong đó, tiểu luận về 3.3.3.9 [những mảnh hồn trần] có thể xem là nghiên cứu thuyết phục và lý thú bậc nhất về Đặng Thân nói riêng và văn học mạng nói chung.

Ham muốn và cách thức tiếp cận truyện tranh và văn học mạng của Phan Tuấn Anh khiến tôi nhớ đến những công việc M. Bakhtin đã làm với thể loại tiểu thuyết. Chắc rằng thái độ dấn thân của bậc thức giả mà anh hằng ngưỡng mộ đã cho anh không ít cảm hứng trong việc lựa chọn đối tượng nghiên cứu và đối mặt với những vấn đề hóc búa của nó.

Văn học hư cấu về đề tài lịch sử là vấn đề không mới, nhưng lại được Phan Tuấn Anh đặt trong sự nhận diện khá công phu. Văn xuôi Việt Nam khai thác đề tài lịch sử từ 1986 đến nay, theo Phan Tuấn Anh, là hành trình đi từ ngoại biên đến trung tâm của lập trường đề cao thuộc tính hư cấu. Hành trình này được kiến tạo cơ sở từ ba tiền đề tư tưởng, triết học: sự vận động căn bản trong cách hiểu về bản chất của ngôn ngữ và văn bản trong nghiên cứu khoa học xã hội; sự thay đổi quan niệm về tính chân xác của tri thức khoa học; và sự hiện diện của những quan điểm mới về triết học lịch sử. Tất cả đã mở rộng chân trời sáng tạo cho hư cấu lịch sử. Song, chân trời tưởng như vô hạn ấy thực chất vẫn có giới hạn, như cách liên tưởng độc đáo của nhà nghiên cứu, là “trên bàn tay của Như Lai”. Vì không thể tách rời điểm tựa lịch sử, sáng tạo văn học về đề tài lịch sử luôn bị hạn định trong cứ liệu lịch sử, trong logic lịch sử, đi kèm với đó là mọi vấn đề liên quan đến bối cảnh văn hóa của thời đại lịch sử được tái hiện. Quan trọng hơn, “trải qua lịch sử lâu dài với nhiều tai biến, địch họa và chiến công, người Việt càng có ý thức đề cao, xem trọng sự kiện lịch sử, nhất là các chiến thắng ngoại xâm, mở mang văn hiến. Do đó, những sáng tác lệch chuẩn, giai thiêng, giễu nhại… nhân vật và sự kiện lịch sử đương nhiên phải chịu số phận long đong, bởi nó đi ngược lại tâm lý độc giả”. Như vậy, bắt nguồn từ đặc trưng thể loại, văn học về đề tài lịch sử vốn dĩ đã là sáng tạo trong hạn định.

Tập hợp những tiểu luận từng công bố trong suốt mười năm nghiên cứu vào một cuốn sách có chung chủ đề văn học ngoại biên, nhưng không tạo nên cảm nhận về sự ghép nối khiên cưỡng, điều đó cho thấy một định hướng học thuật vững chãi và xuyên suốt của tác giả, dẫu có lẽ lúc đầu chỉ dừng lại ở sự nhạy cảm trong tư duy khoa học. Một chặng đường khoa học không dài, nhưng đây đã là công trình thứ ba được xuất bản, tiếp sau Garbriel García Márquez và nỗi cô đơn huyền thoại (Nxb. Văn học, 2015) và Văn học Việt Nam đổi mới - từ những điểm nhìn tham chiếu (Nxb. Văn hóa - văn nghệ, 2019). Những khu vực văn học ngoại biên có thể được xem như một cuốn sách tổng kết thành tựu mười năm, nhưng đồng thời nhiều giá trị khoa học trong đó vẫn hứa hẹn tiềm năng rất lớn phía trước. Chẳng hạn, một chuyên luận công phu và dày dặn về văn học mạng/ máy tính? Điều đó hoàn toàn khả dĩ.

P.T.H.L  
(SHSDB36/03-2020)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HỒ THẾ HÀSerenade của Peter Kihlgard là một truyện ngắn có cấu trúc hiện đại. Trước hết là ở nghệ thuật ngôn từ và điểm nhìn văn bản.

  • BỬU NAM Hình thức lạ lùng gây tò mòTrước hết về mặt hình thức, tiểu thuyết khêu gợi sự tò mò ở người đọc với cách bố trí các tiêu đề in hoa, dày đặc đến hàng trăm suốt tác phẩm, xen lẫn các tiêu đề bằng tiếng Anh “I have been calling for more than an hour... But It's me”...

  • NHỤY NGUYÊN

    Sự đặc biệt của dòng thơ hậu chiến là luôn luôn khuấy động trong cái mênh mông vô chừng tưởng đã lắng xuống những vỉa quặng lấp lánh sau 30 năm đằng đẵng.

  • PHẠM QUÝ VINH Sau khi lên nắm chính quyền ở miền Nam Việt Nam, Ngô Đình Diệm đã thi hành một chính sách đối nội hết sức phản động. Chính quyền Ngô Đình Diệm đã sử dụng nhiều thủ đoạn nham hiểm nhằm khủng bố những người kháng chiến, những người yêu nước.

  • VŨ NGỌC KHÁNHLTS: Ngày 17-11-2007, tại Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội, Trung tâm Minh Triết Việt đã tổ chức Lễ tưởng niệm các nhà giáo Đông Kinh Nghĩa Thục. Giới trí thức học thuật của Hà Nội, nhiều thanh niên, sinh viên và hậu duệ của một số nhà Đông Kinh Nghĩa Thục (ĐKNT) đã đến dự.

  • MAI VĂN HOAN     Nhà xuất bản Văn học vừa ấn hành tập thơ Cõi lặng của Nguyễn Khoa Điềm. Cõi lặng gồm 56 bài, đa phần được viết sau khi tác giả nghỉ hưu. Điều đó cũng là lẽ thường. Các nhà thơ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến... đều như thế cả. Khi đương chức họ bận trăm công nghìn việc. Phải đến lúc nghỉ hưu họ mới sống thoải mái hơn, dành nhiều thời gian cho thơ hơn. Đọc Cõi lặng ta mới thấu hiểu tâm trạng của nhà thơ, mới nghe được nhịp đập của một trái tim nhiều trăn trở.

  • HỒNG NHU“Trường đại học của tôi” là cuốn sách thứ 4 của Nguyễn Nguyên An (tức Nguyễn Văn Vinh) trình bạn đọc trong khoảng mười năm trở lại đây. Ba cuốn trước là truyện ngắn, cuốn này là truyện dài.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊChỉ mới qua hai tác phẩm “Báu vật của đời”(NXB Văn nghệ TPHCM, 2001) và “Đàn hương hình”(NXB Phụ nữ, 2002), Mạc Ngôn - nhà văn “hạng nhất” thuộc Cục Chính trị Bộ Tổng Tham mưu Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc - đã trở nên nổi tiếng ở Việt Nam, thậm chí đã vượt lên cả những “ngôi sao” quen thuộc như Giả Bình Ao, Trương Hiền Lượng, Vương Mông... và cả nhà văn Cao Hành Kiện (Noben 2001).

  • ĐỖ XUÂN NGÂNTôi hân hạnh được đọc tác phẩm Đời hoa, tập tản văn của nhà văn Nguyễn Khắc Phê do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành 1999.

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Lãng Đãng Mây Trời của Thanh Nhơn - NXB Thuận Hoá - năm 2001)Gấp tập thơ "Lãng đãng mây trời" lại, tôi như thấy dưới mái tóc bồng bềnh trong gió của ông là cặp mắt nhìn xa xăm, phiêu diêu, và quanh đâu đây là hương rượu nếp thơm nồng toả ra từ vành môi tủm tỉm cười của ông.

  • HOÀNG BÌNH THI (Đọc thơ HÀ MINH ĐỨC)Trong cơn mưa đầu mùa tầm tã của xứ Huế, tôi đọc lại những bài thơ của giáo sư Hà Minh Đức với một nỗi buồn riêng. Một chút ngạc nhiên mà chẳng ngạc nhiên chút nào, khi song hành với sự uyên bác trong học thuật là một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế vô cùng.

  • LÊ THIẾU NHƠN(Tản văn và bình văn của nhà văn - nhà báo Trần Hữu Lục)Một cuốn sách tập hợp những bài báo của nhà văn Trần Hữu Lục sau nhiều năm anh đồng hành với bè bạn văn nghệ.

  • HOÀNG KIM ĐÁNGÔng nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ này là một trong những nhà văn châm biếm đứng hàng đầu thế giới. Hai mươi năm trước, ông đã đến Việt . Sở dĩ tôi khẳng định chắc chắn như vậy, bởi tôi có trong tay dòng bút tích ghi rõ năm tháng và chữ ký của tác giả; thậm chí còn chụp ảnh kỷ niệm với ông nữa. Tấm ảnh ấy, những dòng bút tích ấy, hiện còn lưu giữ trong cuốn truyện "NHỮNG NGƯỜI THÍCH ĐÙA", sách đó Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới của Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản lần thứ nhất.

  • HỒ THẾ HÀ(Đọc Cho từng ánh lửa, tập thơ của Hải Trung, NXB Thuận Hoá - Huế, 1999)Sự hiện diện của thơ Hải Trung trong đội ngũ những người sáng tác trẻ ở Huế là một niềm vui sau nhiều năm lặng lẽ âu lo của nhiều người về thế hệ làm thơ kế cận của xứ sở được mệnh danh là giàu mơ mộng thi ca này.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Đọc tập truyện "Ngôi nhà hoang bí ẩn" của Phan Văn Lợi)Tôi đọc mê mải tập truyện đầu tay của tác giả Phan Văn Lợi. Cái tựa "Ngôi nhà hoang bí ẩn" gợi trong lòng người đọc một câu hỏi ban đầu: Cuốn sách viết về cái gì đây? Càng đọc, càng bị cuốn hút khi cùng anh trở lại miền ký ức, để đi qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt.

  • LÊ MỸ ÝSau một loạt tác phẩm và tác giả được giới thiệu trên nhiều lĩnh vực tôn giáo, triết học, văn hoá, khoa học và nghệ thuật để làm tư liệu nghiên cứu và tham khảo, trong quý một năm nay, Nhà xuất bản Văn học lại tiếp tục cho ra mắt bộ sách lớn:"Krishnamurti - cuộc đời và tư tưởng" do Nguyễn Ước chuyển ngữ. Đây là một bộ sách công phu và được nhiều độc giả chờ đợi đón đọc.

  • VĂN CẦM HẢI       (Nằm nghiêng - Thơ- Nxb Hội Nhà văn 5/2002)Trên đất Thư "viết buồn thành mưa". Dưới trời Thư "viết buồn thành gió". Giữa đời Thư "viết nỗi buồn sống".

  • TRẦN THUỲ MAIThơ Ngàn Thương bàng bạc một nỗi quan hoài. Trong thơ anh, ta luôn gặp một vẻ quyến luyến ngậm ngùi, đúng như ấn tượng từ cái bút danh của tác giả: Ngàn Thương.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Vậy là đã đúng một chu kì World Cup, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường bị “cải bệnh hoàn đồng” và phải tập ăn tập nói, tập đi tập đứng lại từ đầu. Dù vậy, anh vẫn viết được và viết hay như trước.Trong dịp Festival Huế 2002, đã diễn ra một cuộc hội thảo văn học về Hoàng Phủ Ngọc Tường nhân bộ tuyển tập của anh được Công ty Văn hóa Phương ấn hành.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một số ý kiến đã thành văn được trình bày trong hội thảo đó.

  • NGUYỄN THIỀN NGHIHai chữ "Trăng lạnh" trắng trên nền bìa màu lam do tác giả tự trình bày bềnh bồng một chút tôi bằng những bài thơ tự sự của mình.