Brazil, nhà văn danh tiếng Jorge Amado nói, không phải là một quốc gia mà là một lục địa. Trong phần đóng góp mới nhất của loạt nhà văn trẻ xuất sắc được tạp chí Granta giới thiệu, họ kể những câu chuyện rộng lớn và hấp dẫn của xã hội Brazil hiện đại và ai là tương lai của nó; trong những nhà văn chưa từng được dịch và giới thiệu này góp mặt có Ricardo Lísias đã xuất bản hai tiểu thuyết rất hấp dẫn người đọc.
Xin chuyển dịch sang Việt ngữ từ bản dịch sang Anh ngữ của Daniel Hahn: “My chess teacher”.
Dương Đức dịch và giới thiệu
Ảnh: internet
Ván cờ
RICARDO LÍSIAS
Phần cơ bản của thời niên thiếu của tôi biến mất vào tuần áp chót. Thầy dạy môn cờ của tôi không lên lớp. Vì vậy, tôi men tới quán cà phê nơi chúng tôi vẫn thường xuyên gặp nhau suốt năm năm qua; tôi lấy bàn và ngồi chờ. Đó là lần đầu tiên thầy trễ giờ như vậy. Những người chơi cờ vốn rất khắt khe về thời gian: thua một ván đấu vì hết giờ thường là kinh nghiệm đau đớn còn hơn bị chiếu tướng thua.
Tôi chưa học chơi cờ vua với ai khác. Chính thầy là người dạy tôi theo dõi thời gian. Khi đó tôi mười hai tuổi, được xem như một tài năng xuất sắc của Brazil trong làng cờ thiếu niên và tôi phải đối mặt với giải đấu quan trọng đầu tiên, với đồng hồ tính giờ trận đấu cùng các thứ khác. Một năm trước, mẹ tôi đã theo lời khuyên của ông tôi, người đã không còn đánh bại đứa cháu của mình, tìm cho tôi một người thầy.
Chỉ bây giờ tôi mới thấy sự trùng hợp đó. Chính xác cách đây một tháng tôi gián đoạn việc học cờ vì ông nội tôi qua đời làm tôi không còn chút tâm trí nào nghĩ tới học tập. Tuy vậy, thầy tôi đảm bảo là tôi vẫn đủ sức để tiếp tục luyện tập. Trò mất một quãng thời gian như vậy, Ricardo, trò hoàn toàn biết rõ phải lập tức tập trung trở lại. Còn bây giờ thì chính thầy biến mất. Vậy là đã gần 30 năm kể từ lúc tôi học bài vỡ lòng với thầy.
Sau thời gian gián đoạn ngắn, tôi hỏi có thể tiếp tục việc học bằng cách nghiên cứu những trận đấu đã diễn ra hay không - những cuộc tấn công bất ngờ mà ông tôi rất ưa thích. Đó là thứ duy nhất mà ông tôi nắm rõ trong trận cờ. Khi đó tôi đã học cách vô hiệu hóa kiểu thí quân như điên mà ông hay sử dụng để không bao giờ thua ông nữa. Ông và cháu trở nên xa cách hơn một chút vì tôi tăng cường theo học ở trung tâm để biết thế cờ tránh sự tấn công từ hai cánh.
Buổi học thường kéo dài một giờ rưỡi. Thời gian tôi đợi ở quán cà phê cũng bằng chừng ấy. Rồi tôi gọi điện thoại để tìm kiếm thầy nhưng cuộc gọi không thông suốt. Lúc đó vẫn có chút thời gian trước khi đi đón con ở nhà trẻ, tôi quyết định dừng lại bên tòa nhà nơi thầy tôi ở đó lúc tôi và thầy biết nhau.
“Vào tuần trước, mẹ của anh ấy cùng đi với một số người đàn ông khác đến đây và đã đưa anh ấy đi.”
“Nhưng bà ấy có để lại thông tin nào không vậy?”
“Tôi chỉ biết chừng đó.”
Tôi để lại số điện thoại của tôi ở quầy lễ tân và yêu cầu nhân viên phục vụ gọi cho tôi nếu biết thêm thông tin về ông. Đêm đó, tôi liên lạc với những bạn chơi cờ. Không ai nghe thấy bất cứ điều gì.
![]() |
Minh họa: Tô Trần Bích Thúy |
*
Lúc đầu, thầy tôi đến nhà tôi. Đó là thời điểm tôi mong đợi nhất mỗi tuần. Tôi dành khoảng sáu tuần chỉ để học các nguyên tắc cơ bản. Ricardo, này, đẩy các quân của trò vào góc, trò đang khiếp sợ rồi. Sau đó, tôi bắt đầu xuất hiện tại một vài giải cờ thiếu niên. Ngày đó là vào năm 1986, tôi nghĩ: trong những ngày đó, không giống như ngày hôm nay, rất ít trẻ em chơi trong các giải thi đấu. Hầu hết được chuẩn bị kém và chỉ nhằm để thực hiện mong muốn của cha mẹ mình. Tôi dễ dàng đánh bại tất cả.
Khi tôi lên mười hai, mẹ tôi bắt đầu đưa tôi tới câu lạc bộ cờ vua. Việc học của tôi được chuyển đến đó. Đó là nơi thầy tôi yêu mến nhất trên thế giới này. Lúc đầu, tôi không thích nó. Nó hoàn toàn tối tăm, và cứ vào lúc 3:00 mỗi buổi chiều thứ tư nó như bị bỏ hoang. Khoảng chạng vạng mọi người bắt đầu đến. Đó là lần mẹ tôi đưa tôi đi. Rõ mồn một, bà đã nhận thấy những loại người nào thường xuyên lui tới chỗ như vậy ở trung tâm thành phố São Paulo.
Tuy nhiên, dần dần, tôi đã bắt đầu giành được sự tự do của mình. Mẹ tôi hoàn toàn tin tưởng vào thầy tôi. Ông hứa sẽ để tôi đi tàu điện ngầm khi tôi đã chơi đôi chút với những người luyện tập tại câu lạc bộ. Lần đầu tiên tôi về nhà muộn, bà hăm dọa không bao giờ để cho tôi đi một mình nữa. Tôi đã đủ tự tin để trả lời lại. Và tôi đã kết thúc khóa học được xếp hạng nhì trong độ tuổi dưới 14 ở Brazil. Tôi xuất hiện trên mặt báo, ông nội tôi hết sức tự hào.
Khi lớn hơn, tôi cần ở lại câu lạc bộ thêm để chơi cờ. Lúc đó tôi vẫn là người trẻ nhất nên thầy tôi chăm sóc tôi. Dù sao, môi trường xung quanh không phải là kẻ thù địch. Cho dù nó cũng đầy người lạ trong thành phố, họ chỉ đến đây để chơi cờ. Câu lạc bộ có cho nhiều người xa xứ từ châu Âu đến ở; những học sinh phổ thông trung học họ nghĩ là họ tuyệt vời nhưng chắc chắn đã chấm hết vì cuối cùng không tìm được bạn gái cho mình; rồi có những người độc thân và các chuyên gia, nhiều người trong số họ vất vả để tìm đủ tiền ăn bữa tối cũng như buổi trưa hôm sau.
Thời gian ở câu lạc bộ cờ, với môi trường hoang dã bản địa, đánh dấu sự bắt đầu thời thanh niên của tôi: sáng học tập, thời gian còn lại chơi cờ. Khoảng trống giữa chừng tôi đọc lại các quyển tiểu thuyết đã xem qua ở nhà.
Có tám người trong chúng tôi tìm kiếm thầy tôi. Không có ai tìm thấy thông tin nào. Hôm qua, trong một giải đấu, J. đưa ra ý tưởng độc đáo, cho đến nay, có vẻ hợp lí: tìm mẹ của thầy. Chúng tôi đã gọi điện cho tất cả các bệnh viện trong thành phố São Paulo; F. lục tìm trong hồ sơ của cảnh sát và nhà xác, thậm chí một số nghĩa trang cũng nhận cuộc gọi của chúng tôi. Không ai biết chút gì cả.
Tôi nhận ra là tôi không biết ngay cả tên cha mẹ của người tôi đã thân quen lâu hơn bất kỳ ai khác, ngoại trừ tên cha mẹ của mình. Chỉ lần đó, cách đây nhiều năm, tôi giáp mặt mẹ ông ở ngoài phố. Trùng hợp ngẫu nhiên: bọn tôi đang đi tới quán bar để chúc mừng kết quả thành công của một giải thi đấu và bà đang từ rạp chiếu bóng ra. Bà chào chúng tôi từ xa rồi lập tức đi khỏi, dường như không muốn xâm phạm vào lĩnh vực không phải của bà. Tôi nghĩ mẹ tôi luôn nhận thức về môi trường dễ gây sa ngã đang bao quanh nghề nghiệp của con trai mình, thậm chí chỉ để bảo vệ con trai, bà bỏ qua hết. Cứ như bà nghĩ thì các phần ý thức tốt đẹp cần thiết đã được gìn giữ ở gia đình.
Hôm qua tôi đã kể chuyện với hai người bạn về sự biến mất của thầy tôi. Ý kiến của họ tiêu biểu cho những người ngộ nhận về những người chơi cờ: Lạy Chúa, nhưng chính có lý do mới có người biến mất như thế! Không có lý do nào cả. Ván cờ của chiến thuật và chiến lược thường không liên quan đến mức tàn nhẫn hơn suy nghĩ hợp lý. Bạn chỉ cần nhìn vào khuôn mặt của Kasparov trên YouTube...
Đối với nhiều người, cờ vua là cách duy nhất có thể cùng ngồi với những người khác. Bao trùm là khả năng mở mang bộ nhớ, tỉnh táo và cứng rắn hơn so với đối thủ, để tìm sự kết hợp và có sự kiên nhẫn sử dụng mưu mẹo một cách chính xác trong ván kết thúc khi cảm thấy giống như một trận hòa. Họ là một nhóm người rất kỳ lạ, với tất cả các loại thói quen đáng thương, bịnh giật gân, thường tự xem mình là trung tâm, tính bạo lực và những thứ làm méo mó cái nhìn về bản thân và khả năng trí tuệ của mình.
Cần ví dụ không? Khi đến Paris, bạn săn tìm chỗ nào đó ở Jardin du Luxembourg nơi những người chơi cờ tập trung về. Nó tự nhiên là một khu vực ít bận rộn nhất. Nếu bạn tỉnh táo có thể ở lại và quan sát một lúc. Bạn sẽ thấy có gã trai đeo băng quanh đầu, dù rằng gã bị đau răng dữ dội không bao giờ dứt; ba gã khác nói chuyện với nhau, vài kẻ hôi hám, thằng bé bên phải bạn không thôi ho hen, hai gã khác vừa kết thúc một ván chơi đang lời qua tiếng lại lăng mạ chủng tộc. Trò chơi của người tử tế đấy ư? Duy nhất có ông tôi, chỉ chơi cờ ở nhà.
Trước khi bạn đi khỏi, có một điều duy nhất tôi cần làm rõ: giữa toàn bộ khối người điên này có hai nhà quán quân người Pháp và một người đạt hạng tư thế giới những năm 1980. Tôi đã gặp gỡ họ vài giờ vào năm trước.
*
Ở Brazil, quang cảnh chưa bao giờ cải thiện. Khi mẹ tôi cuối cùng rồi cũng cho tôi tự do quyết định giờ giấc đi về, tôi trở thành thành viên nhóm bạn cờ của thầy tôi. Tôi trẻ nhất. Hai người mới vào đại học lớn hơn tôi không nhiều. Những người khác chừng 25 và thiếu việc làm, hoặc sống rất tồi tàn, bỏ cả chơi cờ.
Khi quay lại đó, đầu những năm 1990, trung tâm cũ của São Paulo là không gian chia sẻ giữa trẻ em đường phố (chúng hoàn toàn không giống người dùng nức tiếng như bây giờ, thời gian chỉ để dành hít keo) và những câu lạc bộ đêm xuống cấp. Câu lạc bộ cờ vua đối diện với một trong những nơi đó.
Năm mười sáu tuổi, tôi biết tài năng chơi cờ của tôi sẽ không đưa tôi đi xa. Nhưng tôi không có bạn bè ở các lĩnh vực khác nên vẫn chơi cờ tại câu lạc bộ. Cứ cuối tuần, chúng tôi chơi đến hai giờ sáng, khi đó người gác cửa đang nôn nóng về nhà đã đuổi chúng tôi ra. Khi đó chúng tôi đi tới một quán bar xa kín đáo mở cửa thâu đêm và tiếp tục chơi cờ. Chủ quán cũng là một fan của môn cờ. Hai người nhóm bên kia có thầy tôi suốt cả đêm mất tăm mất tích ở một nơi nào đó. Một bộ phận người chơi cờ phong lưu bị lối sống sa đọa nào đó thu hút.
Mặc dù tôi chưa có quan hệ tình dục tuổi trưởng thành, con đường dẫn tới quán bar vẫn quyến rũ tôi: gái mại dâm giá rẻ áp lực lên đối tượng khác giới, các con buôn và bọn côn đồ. Tôi đã chấp nhận rủi ro! Nhưng khi tôi đi cùng nhóm, họ không bao giờ quấy rầy tôi.
Vào bốn giờ sáng, cảnh sát đã quyết định bố ráp, họ có thể phạt toàn bộ quán bar: vào tuổi tôi, dù rằng tôi không uống bia rượu, không có cách gì tôi được phép vào một nơi như vậy vào thời gian đó trong đêm. Nhưng ban đêm ở São Paulo luôn luôn cho phép một điều luật tương tự: chỉ có rắc rối ở ngoại vi thành phố. Miễn là ở trung tâm, ai muốn làm gì theo ý mình thì cứ làm, tất cả chúng tôi đã chà đi chà lại làu làu. Luôn có vài cảnh sát trong những người chơi cờ, dù vậy phong cách đặc biệt trong vở kịch của họ có phần quá mạnh tay đối với tôi.
Tôi đã kiệt sức, nhưng tôi bị mắc kẹt ra ở quán bar, tự hào được đón chờ những người lớn tuổi, đối mặt với họ như một người ngang hàng qua hội đồng quản trị, và trên hết, tự hào là một phần của thế giới cờ vua. Ngay lúc hừng sáng, các chuyến tàu điện ngầm bắt đầu chạy lại, tôi sẽ về nhà. Thầy giáo của tôi chắc chắn say chúi nhủi ở một nơi nào đó.
Khi bắt đầu vào đại học, tôi sống bên ngoài São Paulo và dần dần từ bỏ cuộc sống đó. Chừng vài năm, tôi không học cờ nữa và chỉ thi đấu thất thường. Như đã viết, tôi mất liên hệ với tất cả bạn bè thời niên thiếu.
*
Khi tôi ra khỏi hội đồng quản trị, tôi đã là tiến sĩ văn học Brazil và viết bốn cuốn sách. Thời gian tôi từ nhiệm đủ để làng cờ có nhiều thay đổi. Trước kia, chúng tôi phải đợi các tờ báo xuất bản tường thuật các trận so tài giữa Karpov và Kasparov. Trong thế giới cờ vua, Cuộc Chiến Tranh Lạnh đã hết thời. Bây giờ có thể xem các trận đấu trực tuyến trong thời gian thực. Sự thống trị môn cờ vua không còn thuộc về người Nga nữa: vô địch thế giới hiện nay thuộc về một kì thủ trẻ người Na-uy.
Chính một trong những bất ngờ của số phận bắt tôi quay lại chơi cờ. Năm 2009 tôi xuất bản cuốn tiểu thuyết Sách của quan lại, và ngay sau khi ra mắt tôi thấy một phụ nữ mua nó ở cửa hàng sách của rạp chiếu phim tại São Paulo. Người đó là mẹ của thầy tôi. Tôi hỏi thăm thầy và bà cho tôi số điện thoại của thầy bởi không muốn trực tiếp trao đổi bất cứ điều gì với bạn bè chơi cờ vua của con trai bà.
Chúng tôi chỉ biết chắc một điều: bà thích đi xem phim. J. đề nghị chúng tôi đợi đến thứ bảy và mỗi người đứng canh tại lối ra vào của mỗi rạp chiếu phim. Chắc chắn nó là một kế hoạch khủng khiếp nhưng là lựa chọn duy nhất để bất thình lình chiếu bí vua.
Khi sự sàng lọc cuối cùng kết thúc, chúng tôi trao đổi tin qua điện thoại: không có gì cả. Không ai chạm mặt bà. Vào giờ đầu chúng tôi gặp nhau ở quán bar đề bàn bạc sẽ làm việc gì. Đưa lời thỉnh cầu lên Facebook? Việc này, chúng tôi cần một tấm ảnh của bà. Đặt những dấu hiệu tìm kiếm khắp thành phố? São Paulo có kích thước quá rộng, ý tưởng đó không thực hiện được. Không có cách nào sáng sủa: Thầy tôi đã biến mất và chúng tôi không có cách nào tìm được ông.
Như lẽ thông thường, chúng ta bị đánh bại bởi chính sự thật là cái mà những người chơi cờ rất ghét: cuộc sống không phải là trò chơi.
(Nguồn: http://granta. com/my-chess-teacher)
(TCSH381/11-2020)
AZIt NêxinNgày xưa, nhà vua ở một nước nọ có một kho bạc. Nghe đồn rằng trong kho bạc của nhà vua cất giữ một báu vật vô giá duy nhất của nước đó. Mọi người đều tự hào về báu vật mà tổ tiên đã để lại cho họ. “Mặc dầu chúng ta chẳng có gì cả, nhưng tổ tiên đã để cho chúng ta giữ một vật quý”, họ thường tự hào như vậy mà quên đi cảnh túng thiếu của mình.
AZIT NÊXIN (1915 - 1995)Một con chó chạy xồng xộc vào tòa báo "Tin tức đô thành”.
Nhà văn Mỹ Carson Mc Cullers sinh 1917. Các tác phẩm chính của bà là: Trái tim là kẻ đi săn cô độc (1940), Thành viên của đám cưới (1946), Khúc ballad của quán cà phê buồn (1951), Ngọt như dưa chua và sạch như heo (1954)…
Kamala Das tên thật là Kamala Suraiyya, sinh ngày 31.3.1934 tại Punnayurkulam, quận Thrissur, thành phố Kerala, vùng tây nam Ấn Độ. Bà là nhà văn nữ nổi tiếng của Ấn Độ. Bà sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Malayalam. Bà sáng tác thơ và tiểu thuyết ngắn bằng tiếng Anh. Bà chủ yếu nổi tiếng trong thể loại truyện ngắn. Trong sự nghiệp sáng tác, bà đã có nhiều giải thưởng văn học, trong số đó là: Asian Poetry Prize, Kent Award for English Writing from Asian Countries, Asan World Prize, Ezhuthachan Award và một số giải thưởng khác nữa. Ngày 31 tháng Năm, 2009, bà mất tại bệnh viện thành phố Pune, Ấn Độ, thọ 75 tuổi.
HERTA MULLERHerta Mueller vừa được trao giải Nobel văn học 2009 vì đã mô tả cảnh tượng mất quyền sở hữu bằng một lối thơ cô đọng và một lối văn thẳng thắn. Truyện ngắn này rút từ tập truyện Nadirs (1982) là tác phẩm đầu tay của bà.
SHERMAN ALEXIENgay sau khi mất việc ở văn phòng giao dịch của người Anh điêng, Victor mới biết cha anh đã qua đời vì một cơn đau tim ở Phoenix, Arizoan. Đã mấy năm nay Victor không gặp cha, anh chỉ nói chuyện với ông qua điện thoại một hay hai lần gì đó, nhưng đó là một căn bệnh di truyền, có thực và xảy ra đột ngột như xương bị gãy vậy.
KOMATSU SAKYOKomatsu Sakyo sinh tại Osaka (Nhật Bản) (28/1/1931). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto, chuyên ngành Văn học Italia. Từ năm 1957 là phóng viên đài phát thanh Osaka và viết cho một số báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí “SF Magasines” tổ chức. Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Có bốn tiểu thuyết đã được dựng thành phim.
FRANK R- STOCKTONCách đây năm năm, một sự kiện kì lạ đã xảy đến với tôi. Cái biến cố này làm thay đổi cả cuộc đời tôi, cho nên tôi quyết định viết lại nó. mong rằng nó sẽ là bài học bổ ích cho những người lâm vào tình cảnh giống tôi.
MIKHAIN SÔLÔKHỐP Truyện ngắn Mùa xuân thanh bình đầu tiên đã về lại trên sông Đông sau những năm tháng chiến tranh. Vào cuối tháng Ba, những cơn gió ấm áp cũng đã thổi đến, và chỉ sau hai ngày tuyết cũng đã bắt đầu tan trên đôi bờ sông Đông. Khắp mọi ngả đường việc đi lại cũng vô cùng khó khăn.
KAHLIL GIBRANNguồn: A Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng của Kahlil Gibran), Anthony Rizcallah Ferrris dịch từ tiếng Arập, Martin L. Wolf biên tập, Nxb Citadel Press, New York, HK, 1951.
ROBERT ZACKS (ANH)Nhân ngày quốc tế phụ nữ, tôi và anh tôi bàn nhau mua quà tặng mẹ. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi thực hiện điều này.
GUY DE MAUPASSANTÔng Marrande, người nổi tiếng và lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học nghiên cứu khoa học tự nhiên đến thăm và chứng kiến, trong vòng một giờ đồng hồ, một trong những bệnh nhân tại nhà điều trị do ông lãnh đạo.
GUY DE MAUPASSANTGia đình Creightons rất tự hào về cậu con trai của họ, Frank. Khi Frank học đại học xa nhà, họ rất nhớ anh ấy. Nhưng rồi anh ấy gửi thư về, và rồi cuối tuần họ lại được gặp nhau.
JAMAICA KINCAIDNhà văn hậu hiện đại Anh J. Kincaid sinh năm 1949. Mười sáu tuổi, bà đến New York làm quản gia và giữ trẻ. Bà tự học là chính. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của bà: “Giữa dòng sông” (1984) nhận được giải thưởng của viện hàn lâm Văn chương và Nghệ thuật Mỹ; còn các tiểu thuyết “Annie” (1985), “Lucky” (1990) được đánh giá cao.
SAM GREENLEE (MỸ)Sam Greenlee sinh tại Chicago, nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết.Ông cũng đóng góp nhiều truyện ngắn, bài báo trong “Thế giới da màu” (Black World); và xem như là bộ phận không thể tách rời trong văn nghiệp, bởi ông là nhà văn da màu. Tuy nhiều truyện ngắn của ông vẫn được thể hiện theo lối truyền thống, nghĩa là vào cửa nào ra cửa ấy; nhưng cái cách mở rộng câu chuyện ở giữa truyện, bằng lối kể gần gũi nhiều kinh nghiệm; đã gây được sự thú vị. Đọc “Sonny không buồn” qua bản dịch, dĩ nhiên, khó thấy được cái hay trong lối kể, bởi nếp nghĩ và văn hoá rất khác nhau; nhiều từ-câu-đoạn không tìm được sự tương đương trong tiếng Việt. Cho nên đọc truyện này, chỉ có thể dừng lại ở mức, cùng theo dõi những diễn tiến bên ngoài cũng như sự tưởng tượng bên trong của Sonny về môn bóng rổ, cả hai như một và được kể cùng một lúc.
DƯƠNG UÝ NHIÊN (Trung Quốc)Tôi không thể thay đổi được thói quen gần gũi với cô ấy nên đành trốn chạy ra nước ngoài. Tôi đã gặp được em. Khi đăng tác phẩm “Không thể chia lìa” trên một tạp chí xa tít tắp và dùng bút danh, tôi cho rằng mình không một chút sơ hở. Tôi nhận tiền nhuận bút và mua hai chai rượu quý nồng độ cao trên đường trở về. Tôi muốn nói với em điều gì đó nhân kỷ niệm ngày cưới.
S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.
WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?
SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.
SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar trong một gia đình nông dân thuộc tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.