VÕ VINH QUANG
Cô đàn
1. Cô đàn (Đàn tế cô hồn) - một thiết chế thờ tự đậm nét nhân văn
Xứ Thừa Thiên, nơi hội tụ và giao thoa giữa nhiều trầm tích văn hóa. Sự cộng cư hòa hợp giữa các tộc người (người bản địa thuộc các cộng đồng dân tộc Chăm, người Phương Bắc trên con đường Nam tiến di cư vào…) tạo nên một bản sắc độc đáo vừa riêng lại vừa chung đối với truyền thống văn hóa tộc người trong toàn xứ. Cũng bởi thế, các triều đại nhà Nguyễn (1558 - 1945) từ lúc tiếp cận và cai quản vùng đất này đều luôn quan tâm đến mọi mặt của đời sống con người toàn xứ sở, nhất là đạo lý, nhân văn trong việc phụng thờ, tế tự, phối hưởng một cách hài hòa giữa các tộc người, không phân biệt thân sơ.
Trong triều đại các vua Nguyễn trị vì (1802 - 1945), việc lập đàn miếu từ trung ương đến địa phương đều được triều đình quan tâm nhất mực. Công việc tạo dựng các miếu thờ thần (nhiên thần, thiên thần, nhân thần), miếu thờ các vị công thần có công với nước (khai quốc công thần, trung hưng công thần, trung tiết công thần…) đi đôi với việc xây dựng các nghĩa trủng 義塚 (nghĩa địa, nghĩa trang) và cô đàn 孤壇 (đàn tế cô hồn/ âm hồn) ở khắp các làng xã… không ngừng được đẩy mạnh và ghi chép cụ thể vào Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (gọi tắt: Hội điển). Sau sự kiện Thất thủ kinh đô (1885), các đàn tế âm hồn, đàn tế chiến sĩ trận vong… cũng tiếp tục được dựng xây khắp nơi trong cả nước.
Lẽ dĩ nhiên, những đàn tế sau năm 1885 ấy là sự tiếp nối truyền thống nhân văn tốt đẹp của ông cha, đã được triều đình nhà Nguyễn quy định từ trong Hội điển. Chẳng hạn, sách Hội điển, phần Bộ Lễ, quyển 91: Tế các đền các miếu I, mục “Tế âm hồn” có đoạn: “Gia Long năm thứ 2 (1803), chuẩn định ở kinh và các địa phương đều làm đàn ở mãi phía bắc bên ngoài thành, hằng năm cứ ngày mồng ba tháng quí xuân, quí đông đến tế, nếu gặp ngày cấm kỵ thì lùi lại sau 3 ngày, đàn sở thì đặt bài vị thành hoàng ở trên, hai bên tả hữu đều đặt bài vị “vô tự quỉ thần: (quỉ thần không người thờ tự), lễ phẩm 3 con dê, 3 con lợn, 2 phương gạo nếp làm xôi, 3 phương gạo cơm cháo, ở kinh thì quan ở doanh Quảng Đức, ở ngoài thì quan các địa phương khâm mạng làm lễ…1. Như vậy, rõ ràng triều đình nhà Nguyễn rất ý thức chăm lo đến đạo lý nhân bản, yêu thương chia sẻ và đồng điệu Âm - Dương, thuộc truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta.
Cho đến nay, sau nhiều biến thiên của lịch sử, của thời cuộc, ngoại trừ một số đàn tế âm hồn ở trong và ven kinh thành (như Đàn tế Âm hồn ở đường Ông Ích Khiêm, miếu Âm hồn ở ngã ba Mai Thúc Loan - Lê Thánh Tôn, miếu Âm hồn ở Cống Chém, Đàn tế cô hồn làng Vỹ Dạ và nghĩa trang tập thể tại chùa Ba Đồn…), thì các cô đàn tại các làng xã trong toàn tỉnh chỉ còn tồn tại lẻ tẻ.
Một trong những cô đàn còn bảo lưu rất tốt quy mô kiến trúc, là nơi chức sắc làng La Vân thường xuyên tiến hành các buỗi lễ tế hằng năm chính là cô đàn làng La Vân Thượng - xã Quảng Thọ - huyện Quảng Điền - tỉnh Thừa Thiên Huế. Điểm thú vị tại đây không chỉ quy mô đàn tế bề thế, đẹp đẽ mà còn hiện diện một tấm bia ký ghi chép về công đức của dân làng La Vân Thượng trong việc phục dựng lại đàn tế âm hồn ở làng mình.
|
Ảnh tấm bia đá xây dựng cô đàn nằm ở cột trụ |
2. Văn bia cô đàn làng La Vân Thượng
Có dịp đi về hướng Hương Cần - Niêm Phò - Sịa, chúng ta sẽ đi ngang ngôi làng La Vân Thượng (xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền). Ngôi làng này có con đường tỉnh lộ chạy song song với một nhánh sông nhỏ của dòng Bồ giang. Ở gần sát đường đi (khoảng giữa làng), ta sẽ thấy một đàn tế cô hồn (Cô đàn) bề thế, trang nghiêm, hướng chính diện nhìn thẳng ra bờ sông phía trước.
Đây là một trong số ít những cô đàn quy mô bề thế chúng tôi biết được ở các làng tại Thừa Thiên Huế. Chỉ tiếc rằng không hiểu vì nguyên do gì, 2 tấm bia đá (gồm 1 tấm bia không thấy chữ, 1 tấm bia ghi chép công đức xây dựng cô đàn) lại nằm chỏng chơ mé cạnh trụ biểu trước cô đàn, mặc gió sương dãi dầu năm tháng. Nay chúng tôi xin cung cấp bản dịch văn bia công đức tạo dựng cô đàn này.
Hán văn2:
Dịch nghĩa:
[VĂN BIA CÔ ĐÀN, LÀNG LA VÂN THƯỢNG]
Quốc gia thì có nghĩa trủng3, ấy là điển lệ lớn! Ở làng mạc thì có cô đàn4 (đàn tế cô hồn), là ân trạch sâu dày vậy. Xã ta trước nay còn thiếu sót chuyện này! Vào tháng 7 (mạnh thu) năm Quý Sửu (1913), [dân làng] cùng họp tính việc tạo dựng cô đàn để cúng tế những linh hồn không chốn phụng thờ. Xây dựng đã xong, bèn sai viên quản việc ghi chép .
Ôi, các vong linh xa quê, hồn đêm hiện hữu. Nếu là những người đều trú ngụ mãi trong xã ta thì tức đều là người thân thích của họ tộc ta cả. Tang thương chi khiến để [linh hồn ấy] mãi dằng dặc trong cõi mộng! Tuy nói “sống ở thác về”, nhưng khí tượng anh linh hẳn cứ đầy rẫy nơi khoảng Trà sơn Bồ thủy5. Ấy nên, sự lạnh lẽo ở họ do đó vẫn còn vậy. Chẳng làm được một trú sở để tế tự phụng thờ, thì họ đâu rõ ai là chủ nhân để mà nương náu. Từ [mục đích đó], quan Tiên chỉ của ta là Phó Lãnh binh Phan công đề khiến ra việc [dựng cô đàn] này, mà quý hương thân, hào trưởng cùng dốc sức hoàn thành công việc. Nét son điểm xuyết, hương hỏa muôn đời, thờ phụng rõ bày, hồn thiêng thỏa ý. Ôi, từ nay về sau, việc mưu tính sinh tồn không hề còn chút hối tiếc nào. Các hương hào trong làng có tấm lòng công đức đóng góp, hỗ trợ bao gồm họ tên cụ thể liệt kê như sau. Kê:
- Quan viên phụng cúng ngân tiền dưới đây:
Phó Lãnh binh Phan đại nhân cùng phu nhân: 15 đồng; Thành Thủ úy Chế Văn Dần: 2 đồng; Cửu phẩm Trần Viết Ninh cùng chánh thất: 15 đồng. Đội trưởng Phan Tuân: 7 đồng. Thượng hạng Học sinh Tú tài Trần Viết Uyển: 7 đồng. Đội trưởng Chế Văn Thành: 4 đồng. Quan viên tử Phan Hữu Thái: 4 đồng. Đội trưởng Phan Văn Suất: 2 đồng. Đội trưởng Phan Văn Khán: 1 đồng.
- Các vị Tòng chức phụng cúng ngân tiền dưới đây:
Thủ bộ Phan Hợp: 2 đồng. Lý trưởng Nguyễn Chức: 2 đồng. Cấp bằng Nguyễn Kiều: 2 đồng. Thập trưởng Phan Phù: 2 đồng. Tù sự Phan Quế: 1 đồng. Tập binh Nguyễn Vịnh: 1 đồng. Đốc kiểm Nguyễn Dương: 1 đồng. Kinh binh Nguyễn Kiệm: 1 đồng. Ấp trưởng Trần Toại: 1 đồng. Viên tử Chế Thi: 1 đồng. Viên tử Chế Ngôn: 1 đồng. Viên tử Chế Khiêm: 1 đồng. Viên tử Phan Tuyển: 1 đồng. Viên tử Phan Phúc: 1 đồng.
- Các vị Hương lão phụng cúng ngân tiền dưới đây:
Nguyễn Khanh: 1 đồng. Trần Đạo: 1 đồng. Phan Quyến: 1 đồng. Phan Yến: 1 đồng. Phan Hòe: 5 hào.
- Các vị Lưỡng sưu phụng cúng ngân tiền dưới đây:
Thư lại Nguyễn Hoành: 7 đồng. Thủ phiên Phan Liên: 7 đồng [liệt kê 15 vị cúng tiền từ 1-2 đồng, xin lược].
- Nhất Hương nữ phụng cúng ngân tiền dưới đây:
Chánh thất của ông Thượng hạng Học sinh Tú tài Trần Viết Uyển là Nguyễn Thị Xích: 4 đồng... [phần liệt kê 15 bà cúng tiền từ 1 - 2 đồng, xin lược].
- [Hương] tôn phụng cúng ngân tiền dưới đây:
Bang tá Lê Đình (?) và bà vợ Nguyễn Mua: 5 đồng. Trước tác Tôn Thất Lượng và vợ Trần Thị Khang: 2 đồng. [liệt kê 10 vị cúng tiền từ 1 - 2 đồng, xin lược].
Ngày 01 tháng 8 năm Duy Tân thứ 7 (1913).
Đề khiển là Phó Lãnh binh Phan Hữu Xuân; Phụng sung Đổng biện là Cửu phẩm Trần Viết Ninh; Phụng sung Thị sự là Viên tử Phan Hữu Huề; Phụng sung Chuyên biện là Thư lại Nguyễn Hữu [......].
3. Một số luận bàn (thay lời kết luận)
Cùng với cô đàn làng La Vân Thượng, bản văn bia ghi công đức tạo dựng cô đàn này có giá trị cao không chỉ đối với lịch sử hình thành và tồn tại của chiếc đàn tế cô hồn ở ngôi làng này, mà còn là cứ liệu thực chứng cho thấy tính nhân văn đậm nét trong truyền thống văn hóa của cư dân La Vân Thượng nói riêng, Thừa Thiên nói chung, nhất là tấm lòng hướng về vong linh, cô hồn tha hương: “Ôi, các vong linh xa quê , hồn đêm hiện hữu. Nếu là những người đều trú ngụ mãi trong xã ta thì tức đều là người thân thích của họ tộc ta cả. Tang thương chi khiến để mãi dằng dặc trong cõi mộng! Tuy nói “sống ở thác về”, nhưng khí tượng anh linh hẳn cứ đầy rẫy nơi khoảng Trà sơn Bồ thủy. Ấy nên, sự lạnh lẽo ở họ do đó vẫn còn vậy. Chẳng làm được một trú sở để tế tự phụng thờ, thì họ đâu rõ ai là chủ nhân để mà nương náu. (Văn bia).
Người Huế hiện nay thường coi ngày 23/5 âm lịch hằng năm là ngày cúng vọng các cô hồn đã khuất. Điều đó gắn liền với biến cố thất thủ Kinh đô (23 tháng 5 năm Ất Dậu [1885]) đầy đau thương của dân tộc. Tuy nhiên, nếu chỉ gói gọn câu chuyện cúng tế cô hồn vào biến cố Ất Dậu thì không hẳn đã hợp lý. Bởi lẽ, truyền thống văn hóa đầy nhân bản của người Việt ta có ý nghĩa bao quát, rộng lớn hơn. Đó là truyền thống biết ơn và hoài vọng đối với những người khuất mặt khuất mày, những trận vong chiến sĩ, những người đã từng hiện diện ở mảnh đất này và khi qua đời thì không nơi nương tựa. Các vong linh đó đã có từ nhiều đời nay, và đàn tế cô hồn là nơi để hội tụ tất cả họ, được nhân dân quan tâm phụng thờ tế tự. Căn cứ vào nội dung của văn bia này cùng những quy định trong Hội điển (ngày 03 tháng quí xuân [tháng 03 âm lịch] và mồng 3 quí đông [tháng chạp âm lịch]), chúng tôi cho rằng cần nhìn nhận lại việc cúng tế cô hồn trong lịch sử, để phù hợp hơn với tín ngưỡng văn hóa đặc sắc đầy nhân bản của người Việt từ xa xưa.
Đối với làng La Vân Thượng, Cô đàn (Đàn tế cô hồn), đình làng La Vân Thượng và ngôi chùa Trùng Quang là 3 thiết chế tín ngưỡng in đậm nét trong ý niệm văn hóa của dân làng. Cũng bởi thế, việc giữ gìn những giá trị tư liệu vật thể và phi vật thể (như văn bia Cô đàn, chuông chùa Trùng Quang, gia phả các tộc họ…) là điều hết sức cần thiết để góp phần khẳng định dấu ấn và giá trị văn hóa của ngôi làng này trong lịch sử văn hóa xã hội của địa phương và đất nước. Tấm bia đá ghi dấu công đức quý báu của các bậc tiền bối làng La Vân đóng góp vào việc xây dựng ngôi cô đàn khang trang đẹp đẽ như bây giờ, thế nhưng hiện tại chỉ nằm nép bên cột đá cổng Cô đàn, và hiện đã bị sứt mẻ nhiều phần trên phiến đá. Chúng tôi thiết nghĩ nên chăng cần có sự đầu tư vừa phải, hợp lý, để dựng lại tấm bia đá này. Đó cũng là một cách ứng xử tốt đẹp nhất đối với truyền thống văn hóa của ông cha.
V.V.Q
(SHSDB38/09-2020)
-----------------
1. Quốc sử quán triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (Bản dịch viện Sử học) tập 6, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr.470.
2. Vì bài văn bia khá dài nên chúng tôi xin lược bỏ phần phiên âm.
3. Nghĩa trủng 義塚: khu mộ do quan phủ hoặc các nhà quyền quý cung nạp cho trăm họ, dành để mai táng những thi hài chết đường chết sá không nơi nương tựa, hoặc nghèo khó không có đất chôn.
4. Cô đàn孤壇: đàn cúng tế cô hồn.
5. Trà sơn Bồ thủy茶山蒲水: núi của Hương Trà và sông Bồ (từ nguồn Sơn Bồ chảy về Thủy Đảo, Dược Trường qua Cổ Bi, Hiền Sĩ xuống đến ngã ba Quai Vạc (Bác Vọng Đông). Từ ngã ba Quai Vạc thì chia nhiều nhánh, trong đó có nhánh đổ xuống quanh co qua Phúc Yên, Lương Cổ, La Vân Thượng, La Vân Hạ…)
Tuy chỉ là món ăn dân dã và phổ biến ở Huế, nhưng để chế biến được một tô bánh canh cá tràu ngon đúng vị… món ăn này cũng đòi hỏi người chế biến phải tỉ mẩn và khéo léo. Ở Huế, bánh canh có nhiều cách chế biến khác nhau, như bánh canh nấu tôm, chả cua, bò viên, da heo... Tuy nhiên, đặc sắc và thu hút nhất vẫn là bánh canh cá tràu (người Bắc gọi là cá quả, miền Nam gọi đó là cá lóc).
Huế những ngày này mưa dài lê thê. Từ sáng đến tối hầu như mưa không lúc nào ngớt. Đi kèm mưa là cái lạnh rét luồn vào da thịt, làm tím tái những khuôn mặt, bàn tay, đôi chân trần đang tất tả mưu sinh trên đường phố.
BẠCH LÊ QUANG
Nghệ thuật và âm nhạc nói riêng, khi vượt qua lằn ranh của hữu hạn sẽ trở thành những sấm truyền vĩnh hằng, một thứ Kinh mà con người sẽ truyền rao trong cõi nhân sinh đầy biến động.
HỒ THỊ HỒNG
Vua Thiệu Trị từng nói với bề tôi rằng: “Việc dạy học là chính sự trọng đại của triều đình”(1). Nhưng với truyền thống hiếu học của nhân dân ta, từ lâu vấn đề giáo dục đã được xã hội hóa một cách sâu rộng từ trong từng gia đình, dòng họ và toàn xã hội Việt Nam.
(SHO). “Đã mê ớt đỏ cay nồng
Tìm trong vị hến một dòng Hương xanh
Ruốc thơm, cơm nguội, rau lành
Mời nhau buổi sáng chân thành món quê”
PHẠM THỊ PHƯƠNG THẢO
Trong chuyến đi Huế dự lễ kỷ niệm ba mươi năm Tạp Chí Sông Hương vừa rồi, tôi được Tổng Biên Tập Hồ Đăng Thanh Ngọc ghé tai thông báo: “Chị cứ đi chơi Sông Hương và thăm quan quanh cố đô Huế những chỗ chưa biết, nhưng đừng nên khám phá hết để còn có cái thôi thúc mình lần sau vô Huế mà khám phá tiếp nữa. Nhưng dù đi đâu các anh chị cũng đừng quên đến thăm Gác Trịnh mới khánh thành nhé, hay lắm đấy, dù bận mấy cũng nên tranh thủ ghé thăm Gác Trịnh dù là vài phút ”.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌC
Buổi sáng, tôi ngồi trong Gác Trịnh nhìn ra ngoài cửa sổ. Bên ngoài trời đang se sắt chuẩn bị mưa, sự se sắt nằng nặng.
PHẠM HUY THÔNG
Đầu năm 1986, nghĩ rằng năm nay là một năm có nhiều sự kiện trọng đại diễn ra trong nước ngoài nước, tôi e rằng kỷ niệm mùa hè 200 năm trước của Phú Xuân và của dân tộc, dù không phải là không có tầm vóc, có thể chỉ được chú ý có mức độ, - nếu có được nhắc đến.
LÊ HUY ĐOÀN
Những cửa thành của Kinh thành Huế ghi dấu những sự kiện từ kinh đô thất thủ ngày (23/5 năm Ất Dậu, 1885) sau cuộc chiến không cân sức giữa phe chủ chiến của triều đình Huế với giặc Pháp rồi đến sự tàn phá của thiên tai qua trận lụt 1953 làm 4 cửa thành đổ sập, rồi lại trải mình qua chiến sự Tết Mậu Thân (1968) với bao nhiêu vết hằn của bom đạn.
VÕ NGỌC LAN
Như một mặc định của thời gian khi Huế là kinh đô của cả nước và nơi đây cũng là kinh đô của những chiếc áo dài. Vì vậy con gái Huế được làm quen với tà áo dài rất sớm. Bởi khi mới sinh ra đã thấy mẹ, thấy bà, thấy những người phụ nữ chung quanh khoác trên mình chiếc áo dài.
LÊ PHƯƠNG LIÊN
…Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về…
(Đất nước - Nguyễn Đình Thi)
G.S. TRẦN QUỐC VƯỢNG
Thế kỷ XVI chứng kiến sự vỡ ra của nền quân chủ quan liêu Nho giáo Việt Nam.
THANH TÙNG
Tháng 10/2012, tại khách sạn Rex - thành phố Hồ Chí Minh, chiếc bánh đậu xanh Phượng hoàng vũ khổng lồ của nghệ nhân ẩm thực Tôn Nữ Thị Hà và ái nữ Phan Tôn Tịnh Hải được vinh danh Kỷ lục châu Á - do Hội Kỷ lục châu Á công nhận.
HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN
Ở Huế có nhiều món ngon nổi tiếng như bún bò, cơm hến, dấm nuốt, bánh khoái, bèo, nậm, lọc… điều này đã được nói nhiều. Nhưng còn nhiều chuyện có thể bạn không để ý lắm.
NGUYỄN HUY KHUYẾN
Vườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Khu vườn này đã được đi vào thơ ca của các vua nhà Nguyễn như là một đề tài không thể thiếu.
VÕ NGỌC LAN
Đã từ lâu danh xưng mai Huế như một mặc định cho loài hoa mai có năm cánh với sắc vàng rực rỡ. Loài hoa mai ấy chỉ sinh trưởng trên đất Cố đô và cũng là đặc sản của vùng sông Hương núi Ngự.
LÊ VĂN LÂN
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968 với việc chiếm giữ Huế 26 ngày đêm đã tạo nên bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, làm sụp đổ chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ - Ngụy, làm lung lay ý chí xâm lược của kẻ thù, buộc địch phải ngồi vào bàn đàm phán Paris.
NGUYỄN HỒNG TRÂN
Câu chuyện này do nhà thơ Bích Hoàng (tức Hoàng Thị Bích Dư - cựu nữ sinh trườngĐồng Khánh - Huế) kể lại cho tôi nghe trực tiếp vào đầu năm 2012 tại nhà riêng của cô ở 170 phố Cầu Giấy, Hà Nội.
TRẦN BẠCH ĐẰNG
Mỗi địa danh của đất nước ta chứa mãnh lực riêng rung động lòng người, từ những khía cạnh rất khác nhau. Có lẽ lịch sử và thiên nhiên vốn ghét bệnh "cào bằng", bệnh "tôn ti đẳng cấp" cho nên lưu dấu vết không theo một công thức nào cả. Quy luật khách quan ấy làm phong phú thêm đời sống nội tâm của dân tộc ta.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Đề cập đến sự nghiệp cầm bút của Thượng Chi Phạm Quỳnh cần phải có một cái viện nghiên cứu làm việc trong nhiều năm mới hiểu hết được. Do hoàn cảnh lịch sử, tôi chưa bao giờ dám nghĩ đến mình có thể tìm hiểu một khía cạnh nào đó trong sự nghiệp to lớn của ông.