WALTER BENJAMIN
(Trích trong tác phẩm Illuminations do Hannah Arendt biên tập và đề tựa, 1968, bản dịch từ tiếng Đức của Harry Zohn)
Văn hào Kafka - Ảnh: internet
Tác phẩm của Kafka là một vòng hình trứng với hai tiêu điểm cách xa nhau và được xác định, một mặt bằng kinh nghiệm huyền bí (đặc thù, là kinh nghiệm của truyền thống) và mặt khác là kinh nghiệm của người dân đô thị lớn hiện đại. Khi nói về kinh nghiệm của người dân đô thị lớn, tôi có một loạt các sự việc trong đầu. Một mặt, tôi nghĩ về người công dân hiện đại vốn biết mình tự thân tùy thuộc một guồng máy bao la về bàn giấy quan liêu hoạt động do các quyền chức còn mơ màng ngay cả với các cơ quan thừa hành, chứ khoan nói là với đám nhân dân mà họ xử lí. (Được biết rằng một tầng ý nghĩa trong các tiểu thuyết, đặc thù là trong cuốn Vụ án, được bao gồm bởi điều này.) Khi tôi quy chiếu về người dân cư ngụ trong đô thị lớn hiện đại, tôi cũng đang nói tới người đương đại với ngày hôm nay của các nhà vật lí. Nếu người ta đọc đoạn văn sau đây trong cuốn Bản tính của thế giới vật thể của Eddington, người ta hầu như có thể nghe tiếng Kafka nói.
“Tôi đang đứng trên thềm sắp sửa bước vào một căn buồng. Đó là một sự việc phức tạp. Trước tiên tôi phải xô đẩy một khí quyển đè bằng một lực là mười bốn cân Anh trên mỗi inch vuông [tức ba kí lô trên 6,25 cm2] của thân thể tôi. Tôi phải chắc chắn rằng đặt chân trên một tấm ván du hành hai mươi dặm [32 km] mỗi giây quanh mặt trời - chỉ cần một phần của giây quá sớm hoặc hai phần của giây quá trễ, là tấm ván kia hẳn sẽ cách xa nhiều. Tôi phải làm việc này trong khi lơ lửng từ một hành tinh tròn với đầu nhô ra trong không gian, và bới một ngọn gió thinh không thổi người ta không biết là bao nhiêu dặm mỗi giây qua từng kẽ hở của thân thể tôi. Tấm ván về chất liệu không có gì là chắc chắn. Bước lên nó chẳng khác nào bước lên một đám ruồi. Tôi có bị trượt chân qua không? Không, nếu tôi làm cuộc mạo hiểm một trong những con ruồi có thể va vào tôi và đẩy tôi lên; tôi lại rớt xuống và lại bị tung lên bởi một con ruồi khác; và cứ thế. Tôi có thể hi vọng rằng kết quả thuần sẽ là tôi vẫn đứng ổn cố; nhưng nếu chẳng may tôi bị trượt qua sàn nhà hoặc bị đẩy quá mạnh lên trần nhà, việc này có xảy ra sẽ không phải là một sự vi phạm các định luật của tự nhiên, nhưng là một sự trùng hợp hiếm hoi….
Thực vậy, một con lạc đà còn dễ chui qua lỗ trôn kim hơn là một nhà khoa học đi qua một cái cửa. Và dù cho cái cửa đó có là ở nhà kho hoặc cửa nhà thờ, khôn ngoan hơn là nhà khoa học ấy chịu làm một người bình thường và bước vào hơn là chờ cho tới khi mọi khó khăn liên quan tới việc một sự xâm nhập thực sự khoa học được giải quyết(*)”.
Trong toàn bộ văn học tôi không biết có đoạn văn nào mang dấu ấn của Kafka cùng với mức độ đó. Không cần phải cố gắng gì người ta có thể đọ hầu như mọi việc vượt qua của sự phức tạp vật thể này với những câu trong các tác phẩm văn xuôi của Kafka, và có nhiều điều chỉ ra rằng khi làm như thế nhiều đoạn văn “khó hiểu” nhất sẽ thích nghi được. Vì vậy, nếu người ta nói - như tôi vừa nói - rằng có một sự căng thẳng lớn lao giữa những kinh nghiệm của Kafka tương ứng với vật lí ngày nay và những kinh nghiệm huyền bí của ông, đó là chỉ phát biểu một nửa sự thật. Điều thực sự và trong một nghĩa đen rất sát, sự khó tin một cách lạ lùng ở Kafka là cái thế giới gần nhất của kinh nghiệm này được chuyển tải tới ông chính bằng cái truyền thống huyền bí kia. Dĩ nhiên, điều này hẳn đã không xảy ra nếu không có những tiến trình tan hoang (được thảo luận ngay đây) bên trong truyền thống này. Tất cả vấn đề này là dường như có một sự kêu gọi tới những sức mạnh của truyền thống này nếu một cá nhân (mang tên Franz Kafka) phải chạm trán với cái thực tại của chúng ta tự nhận thức một cách lí thuyết, chẳng hạn, trong vật lí hiện đại, và thực tế trong kĩ thuật học của chiến tranh hiện đại. Điều tôi muốn nói là thực tại này hầu như không còn có thể trải nghiệm bởi một cá nhân, và thế giới của Kafka, thường rất đùa vui và có các thiên sứ quấn quýt, là sự bổ túc chính xác cho kỉ nguyên của ông đang chuẩn bị thanh toán những cư dân của hành tinh này với tính cách đại quy mô. Kinh nghiệm tương ứng với cái của Kafka, cá nhân riêng tư, chắc hẳn sẽ không được quần chúng có thể tiếp cận cho đến khi mà họ bị thanh toán luôn.
Kafka đang sống trong một thế giới bổ túc. (Trong điều này ông liên hệ mật thiết với Klee, mà tác phẩm trong hội họa cũng thiết yếu cô đơn như tác phẩm của Kafka trong văn học). Kafka đã cung ứng cái bổ túc mà không nhận thức được những gì bao quanh ông. Nếu người ta bảo rằng ông nhận biết cái sắp tới mà không nhận biết cái đang tồn tại trong hiện tại, người ta nên thêm rằng ông đã nhận biết nó thiết yếu như một cá nhân bị nó tác động. Những cử chỉ kinh hoàng của ông được ban cho quy mô do cái biên diệu kì mà tai biến sẽ không ban cho chúng ta. Và kinh nghiệm của ông chỉ căn cứ duy nhất vào truyền thống mà Kafka phó mình; không có sự nhìn xa trông rộng hoặc “thị kiến tiên tri” nào. Kafka đã lắng nghe truyền thống, và kẻ nào mải lắng nghe sẽ không nhìn.
Lí do chính tại sao sự lắng nghe này lại đòi hỏi cố gắng như thế là bởi chỉ những âm thanh không rõ nhất mới tới được người lắng nghe. Không có một chủ thuyết nào người ta có thể hấp thu, không có một tri thức nào người ta có thể bảo tồn. Những sự việc muốn được nắm bắt khi chúng lướt qua không chủ định cho tai của ai cả. Điều này hàm chứa một tình trạng sự vụ đặc trưng một cách tiêu cực những tác phẩm của Kafka với sự chuẩn xác lớn lao. (Ở đây một sự đặc trưng tiêu cực hoàn toàn có kết quả hơn là một sự đặc trưng tích cực). Tác phẩm của Kafka trình ra một sự bịnh hoạn của truyền thống. Minh triết đôi khi đã được định nghĩa như là mặt sử thi của chân lí. Một sự định nghĩa như thế in dấu minh triết như là nội tại trong truyền thống; nó là chân lí trong sự nhất trí của truyền thống Haggadah [Sự tích của đạo Do thái].
Chính sự nhất trí về chân lí này đã bị mất đi. Kafka không hề là người đầu tiên phải giáp mặt với tình huống này. Nhiều người đã tự thích nghi với nó, bám lấy chân lí hoặc bất kể thứ gì mà tình cờ họ coi là chân lí, và với cõi lòng ít nhiều u uất, bỏ qua việc truyền thụ nó. Thần tính thực sự của Kafka là ông cố thử một điều gì hoàn toàn mới mẻ: Ông hi sinh chân lí để có thể bám vào việc truyền thụ nó, thành tố Haggadah của nó. Những văn bản của Kafka trong bản tính là những dụ ngôn. Nhưng sự khốn cùng và cái đẹp của chúng là chúng phải trở nên hơn là các dụ ngôn. Chúng không khiêm tốn nằm ở dưới chân của chủ thuyết, như Haggadah [Truyện kể] nằm dưới chân của Halakah [Giáo luật]. Mặc dầu dường như bị giảm trừ vào thế khuất phục, chúng bất ngờ giơ vuốt mạnh mẽ chống lại chủ thuyết.
Đó là lí do tại sao, đối với Kafka, chúng ta không còn có thể nói về minh triết. Chỉ có những sản phẩm của sự tan rã của minh triết còn lại. Có hai cái: một là tiếng đồn về những điều chân thật (một thứ lí tính thần học được thì thầm xử lí những vấn đề đã bị mất tin tưởng hoặc lỗi thời); và sản phẩm khác của tố chất này là điên rồ - cái chắc chắn đã hoàn toàn phung phí bản chất của minh triết, nhưng bảo tồn sự hấp dẫn và bảo chứng của nó, là thứ mà tin đồn luôn luôn thiếu. Điên rồ nằm ngay tâm điểm những thứ Kafka ưa thích nhất - từ Don Quixote qua những phụ tá tới những loài vật. (Là một con vật chừng như đối với ông chỉ có nghĩa là từ bỏ dạng thức người và cái khôn ngoan của loài người do một thứ xấu hổ - như sự xấu hổ có thể khiến một người lịch sự ở trong một quán rượu tồi tàn tránh không lau sạch cốc của mình). Điều này Kafka tuyệt đối chắc chắn: thứ nhất, ai đó phải là một kẻ khùng mới đứng ra giúp đỡ; thứ nhì, chỉ sự giúp đỡ của một kẻ khùng mới là giúp đỡ thực sự. Điều duy nhất không chắc là chẳng biết sự giúp đỡ như thế vẫn còn có thể hữu ích gì cho một người hay không. Chắc hẳn nó có thể giúp đỡ cho các thiên sứ hơn (so sánh đoạn nói về các thiên sứ phải có việc gì để làm) là những kẻ không thể không trợ giúp. Vậy là, như Kafka nêu ra, có một lượng vô hạn về hi vọng, nhưng không phải cho chúng ta. Phát biểu này thực sự chứa đựng hi vọng của Kafka; nó là cội nguồn sự an nhiên rạng ngời nơi ông.
Tôi chuyển cho bạn hình ảnh có phần được nén một cách khá ngặt nghèo này - theo cung cách của sự giảm trừ về viễn kiến - với tất cả sự thoải mái là bạn có thể mài nhọn nó bằng những quan điểm mà tôi đã khai triển từ nhiều khía cạnh trong bài tiểu luận của tôi về Kafka đăng ở tạp chí Judische Rundschau, 1934. Điều phê bình chủ yếu của tôi là bản nghiên cứu đó ngày hôm nay có tính chất biện hộ. Để công bình với hình tượng của Kafka trong sự thuần khiết và vẻ đẹp đặc thù của nó người ta không bao giờ được đánh mất cái nhìn về một điều: nó là sự thuần khiết và vẻ đẹp của một thất bại. Những hoàn cảnh của sự thất bại này có nhiều mặt. Người ta bị cám dỗ muốn nói: một khi ông ta chắc chắn cuối cùng cũng thất bại, thì mọi sự vận hành cho ông trên đường như thể trong một giấc mơ. Không có gì đáng nhớ hơn niềm hăng say mà Kafka nhấn mạnh về sự thất bại của ông.
Nguyễn Tiến Văn dịch
(SH283/09-12)
--------------------------------
Ghi chú: Văn bản này nằm trong một lá thư Walter Benjamin viết gửi cho bạn cũng là người Do thái tên là Gerhard Scholem đề ngày 12/6/1938, viết từ Paris
(*) Arthur Stanley Eddington, The Nature of the Physical World, New York - Cambrige, 1929, trang 342. Benjamin trích dẫn trong bản dịch tiếng Đức.
HỒ THẾ HÀPhân tâm học ra đời đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc nhận thức những vấn đề thầm kín, vi diệu nhất của tâm sinh lý con người. Nó trở thành khoa học phân tích tâm lý chiều sâu của mọi hành vi trong đời sống ý thức và vô thức của mỗi cá thể người.
TRẦN THỊ THANH NHỊ “Tôi bị thôi thúc bởi một thứ khao khát hiểu biết có liên quan đến những quan hệ giữa người với người hơn là với các đối tượng tự nhiên.”(Sigmun Freud)
TZVETAN TODOROV(Cuộc tranh luận văn học giữa George Sand và Gustave Flaubert - qua đánh giá của Tzvetan Todorov)
ĐỖ LAI THÚYCon gì sáng bốn chântrưa hai chântối bốn chân?Câu đố của Sphinx
HÀ VĂN LƯỠNG1. Trong hai thập niên cuối của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI, nước Nga đã có những biến đổi chính trị sâu sắc làm thay đổi đất nước trên nhiều phương diện: chính trị - xã hội, kinh tế, văn hoá, giáo dục và văn học nghệ thuật… Những nền tảng xã hội, những chuẩn mực đạo đức trước đây đã từng tồn tại trên bảy chục năm, được tiếp nối qua nhiều thế hệ đã thay đổi.
TRẦN QUỐC HỘIGenette coi thời gian là nhân tố trung chuyển cốt truyện đến truyện kể, qua hành vi kể chuyện. Ông đã sáng tạo ra mô hình xử lý thời gian rất thú vị, mô hình xử lý của ông xung quanh những vấn đề cơ bản như trình tự, tốc độ, tần suất kể chuyện.
HÀ VĂN THỊNH Luận điểm trung tâm của Tư tưởng Hồ Chí Minh là Độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH. Đó là quan điểm chiến lược có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ tiến trình Cách mạng Việt . Chính vì thế, nắm bắt một cách sâu sắc tinh thần biện chứng của chủ nghĩa Lê Nin để vận dụng thật sáng tạo kinh nghiệm của Cách mạng tháng Mười (CMT10) vào hoàn cảnh cụ thể của Cách mạng Việt Nam (CMVN) là mục đích xuyên suốt của Tinh thần và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
HOÀNG NGỌC HIẾNĐây là hai vấn đề tôi tâm đắc nhất trong nhiều vấn đề lý thú được nêu lên trong tác phẩm của André Chieng (1).
HOÀNG NGỌC HIẾN(tiếp theo và hết)Trong tập chuyên luận của A.Cheng, tìm hiểu những nguyên nhân tư tưởng tạo ra thần tích kinh tế Trung Hoa trong 3 thập kỷ qua, từ chương này sang chương khác, tác giả nhấn mạnh những nét đặc sắc của văn hoá Trung Hoa:...
NGUYỄN HỮU QUÝ1. Einarokland, nhà thơ Na Uy đã phát biểu tại hội thảo Thơ và toàn cầu hóa, tổ chức ở Vácsava tháng 10 năm 2001 rằng: “Con người, còn ngôn ngữ thì còn thi ca. Thi ca biết tự lo toan cho bản thân mình”.
BẢO NHÂNỞ nước ta, Huế được xem là kinh đô của Phật giáo, không phải bởi vì ở đây có nhiều chùa tháp, đông đảo tín đồ theo Phật hay từng có một thời là cái rốn của Phật giáo Việt , biệt xuất nhiều bậc cao tăng đương đại. Theo chúng tôi, nói như nhà viết kí Hoàng Phủ Ngọc Tường, bởi vì tính cách Huế, không phải Nho, mà chính là Thiền.
ĐỖ LAI THÚY(Tiếp theo Sông Hương 11/2007)Tiếng nói của tình yêu đồng giới, của dục cảm đồng giới không chỉ bằng ngôn ngữ của hữu thức, trực tiếp, mà chủ yếu còn bằng ngôn ngữ của vô thức, hàm ẩn.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆPNhững ai gần Trương Đăng Dung, thường nghe anh nói nhiều về các loại giới hạn: giới hạn của đời, sự phi lý của cõi nhân sinh, sự cản trở của những tín điều xưa cũ...
TƯỞNG THUẬT TRÁC Có phải hiện nay văn học đang đối mặt với thời đại tiêu dùng hay không? Nhiều người còn hoài nghi vấn đề này. Thậm chí có người còn phủ định sự có mặt của thời đại tiêu dùng trong khi miền Đông và miền Tây Trung Quốc đang có sự không cân bằng và tất cả đều đang xây dựng một xã hội khá giả.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHKhông Lộ là một vị thiền sư thời Lý, ông họ Dương, quê ở Hải Thanh, chùa Nghiêm Quang - nay là chùa Keo, thuộc xã Vũ Nghĩa, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình; dòng dõi nhiều đời làm nghề chài lưới, sau bỏ nghiệp sông nước, xuất gia tu Phật, thường trì tụng Đà-la-ni.
THÁI DOÃN HIỂUNguyễn Khắc Thạch làm thơ như đi chân trần trên lưỡi dao bén của sự thật, máu toé vãi ra. Anh lấy dự cảm của mình làm thuốc băng bó. Vết thương thành sẹo. Thạch gọi đấy là thơ! “Thơ là sẹo của sự thật”.
TÂM VĂNNgười xưa có câu: “Tòng thiện bất túc dĩ vi chính” (Chỉ theo điều thiện thì không đủ để làm chính trị). Câu nói đó xem ra rất đúng với Tào Tháo.
LƯU KHÁNH THƠ1. Nam Trân trong dòng thơ tả chân của phong trào thơ mớiHoài Thanh đã dùng khái niệm tả chân để định danh một nhóm các tác giả Thơ mới tương đối gần nhau về bút pháp.
NGUYỄN DƯƠNG CÔN(Trao đổi về tiểu luận Văn học như là tư duy về cái khả nhiên của Trần Đình Sử, Văn Nghệ số 24 ngày16/6/2007)
VĂN TÂMXứ Huế – Thừa Thiên có một vị lão thành cách mạng được nhiều người biết tên tuổi. Đó là cụ Nguyễn Vạn, tức Lê Bốn; tên khai sinh là Phùng Lưu – "thầy Lưu", sinh năm 1916, quê ở làng Thanh Thủy Thượng (nay thuộc xã Thủy Dương), huyện Hương Thủy.