NGUYỄN HỮU PHÚC
1. Quá trình định hình và phát triển tục thờ Quan Thánh ở Thừa Thiên Huế
Tục thờ Quan Thánh có nguồn gốc từ những cư dân người Hoa khi họ sang Việt Nam để buôn bán, định cư. Ông vốn là một danh tướng của nhà Thục thời Tam quốc, được người Trung Quốc thờ phổ biến với nhiều ý nghĩa. Sinh thời, Quan Công là vị tướng văn võ toàn tài, trung nghĩa, liêm chính, cương trực, sau khi mất, ông được nhân dân Trung Quốc sùng kính là một vị anh hùng, được xem là bậc thánh và được thờ tại Quan Đế Miếu, nên có tên gọi là Quan Thánh Đế Quân. Người đời cho ông là người hội đủ mọi đức tính tốt đẹp như: trọng danh dự, trung thành với vua, thủy chung với huynh đệ, khoan dung độ lượng, dũng mãnh phi thường và công minh, chính trực.
Trước thế kỷ X, người Hoa đến Việt Nam chủ yếu bằng đường bộ để tiến hành hoạt động trao đổi, buôn bán hàng hóa. Từ sau thế kỷ X đến trước thế kỷ XVII, người Hoa đa phần đến nước ta để trao đổi buôn bán bằng đường biển. Tuy nhiên, các đợt di dân đông đảo nhất từ cuối thời Minh đầu thời Thanh và khi chúa Nguyễn cho phép họ sang định cư tại Đàng Trong. Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Tần cho một lực lượng lớn người Hoa di dân đến vùng đất Đông Phố (ngày nay là vùng đất thuộc Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Đồng Nai) để khai phá đất đai. Mục đích của đoàn di dân Trung Hoa này là nêu cao phục quốc “phản Thanh, phục Minh”. Đoàn di dân này được chia thành hai nhóm: nhóm do Trần Thượng Xuyên và Trần An Bình đến định cư tại Nông Nại (Biên Hòa, Đồng Nai). Nhóm do Dương Ngạn Địch và Hoàng Tiến chỉ huy đến định cư tại Gia Định - Sài Gòn, Vũng Cù (Định Tường, đất Mỹ Tho ngày nay), đem binh biền và gia quyến hơn 3.000 người và chiến thuyền hơn 50 chiếc1. Ở những nơi này, các đoàn người đã khai phá đất hoang, lập chợ, lập làng, dần hình thành những trung tâm buôn bán tấp nập các thương thuyền các nước. Chính sự cộng cư giữa người Hoa với người Việt tại vùng đất mới đã tạo điều kiện cho văn hóa Trung Hoa có điều kiện thấm dần vào đời sống cư dân nơi đây, mà một biểu hiện nổi bật nhất chính là sự lan tỏa tín ngưỡng thờ Quan Thánh.
Cũng từ hoàn cảnh mất nước, các thần dân Đại Minh vì muốn khôi phục tiên triều, họ lại đề cao hình tượng Quan Thánh trung nghĩa với Đại Hán để ví von, ngầm khơi dậy lòng trung nghĩa của người Hán chống lại Mãn Thanh. Một số trung thần triều Minh không chấp nhận sự đô hộ của ngoại tộc, phần lớn bỏ Trung Quốc ly hương đến các nước Đông Nam Á, trong đó có Thuận Hóa ở Đại Việt để sinh sống2. Tại vùng Thuận Hóa xưa, tỉnh Thừa Thiên Huế nay, người Hoa đến định cư vào giữa thế kỷ XVII, ít nhất sau năm 1658. Phần đông họ đến từ Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam. Đây là những khu vực ven biển phía Nam Trung Quốc, người dân sống chủ yếu bằng nghề biển. Chiếc thuyền là phương tiện di chuyển, phương tiện làm ăn sinh sống của họ. Biển cả bao la khiến con người luôn cảm thấy nhỏ bé trước hiểm nguy3. Mặt khác, họ là những người chuyên làm nghề kinh doanh, buôn bán và rất sợ bị thua lỗ với những vị khách hoàn toàn xa lạ đối với họ. Vì thế, Quan Thánh được họ thỉnh theo, kính cẩn thờ tự và cầu nguyện. Đến xứ Thuận Hóa, họ cũng đã lập miếu thờ, vừa là nơi để tạ ơn và nơi để gửi gắm đức tin, tiếp tục cầu nguyện sự linh ứng của Ngài.
Sang thế kỷ XVIII, XIX, người Hoa lại tiếp tục sang định cư, làm ăn, buôn bán tại các tỉnh miền Trung, trong đó có Huế, tín ngưỡng Quan Thánh trở nên phổ biến nơi đây. Qua khảo sát tục thờ Quan Thánh Đế Quân trên vùng đất Huế, chúng tôi nhận thấy, tín ngưỡng này xuất hiện không chỉ các hội quán và đền miếu chuyên thờ của người Hoa trước đây, mà ở ngôi chùa, đền am thờ Mẫu và tại các gia đình của người Việt cũng thờ Quan Thánh như vị thần hộ pháp, thần tài.
2. Các cơ sở thờ tự Quan Thánh
* Thờ tại các hội quán và chùa Ông
![]() |
![]() |
Tượng và ban thờ Quan Thánh tại chùa Ông ở đường Địa Linh |
Hội quán hay chùa Ông là những địa danh gắn liền với người Hoa khi họ sang định cư tại vùng đất Huế. Hiện nay, ở Huế có hai khu phố đã từng lưu những dấu ấn của người từng sinh sống và phát triển kinh tế thương nghiệp là phố cảng Thanh Hà và phố cổ Gia Hội. Để cùng trao đổi công việc, giao lưu văn hóa và thờ cúng thần linh, tổ tiên, người Hoa đã lập nên những hội quán theo từng cộng đồng địa phương, tiêu biểu như Hội quán Quảng Triệu (số 223 đường Chi Lăng) của người Hoa ở khu vực Triệu Khánh của bang Quảng Đông; Hội quán Quỳnh Châu (số 307 đường Chi Lăng) của người phủ Quỳnh Châu, Nam Hải; Hội quán Triều Châu (số 319 đường Chi Lăng) của người bang Triều Châu; Hội quán Phúc Kiến (số 321 đường Chi Lăng) của người Hoa thuộc bang Phúc Kiến xây dựng), Hội quán Quỳnh Phủ của người Hải Nam. Tại những hội quán này, người Hoa đã phối thờ nhiều vị thần linh khác nhau như Thiên Hậu Thánh Mẫu, Tam Thai Thánh Mẫu Nương Nương và Thập Nhị Hoa Phi Công chúa (dân quen gọi là 3 Bà 12 Mụ), Văn Xương Đế Quân, Phúc Đức Chính Thần, Ngũ Hành Nữ Thần, Long Mẫu Nương Nương, Kim Huê Nương Nương,…, trong đó, Quan Thánh được nhiều hội quán phụng thờ.
Tên hội quán | Vị trí thờ |
Quảng Triệu | Chính giữa |
Quỳnh Châu | Bên tả (bên trái) |
Phúc Kiến | Bên tả |
Quỳnh Phủ | Bên tả |
Nếu như các hội quán Quan Thánh được phối thờ với nhiều vị thần khác, thì chùa Ông, vị thần được thờ ở vị trí trung tâm. Mặc dù được gọi chùa nhưng lại không liên quan đến Giáo hội Phật giáo, cũng không có sinh hoạt của Phật tử, nhưng người dân vẫn quen gọi là “chùa” và nói không cần đính chính. Đây cũng là minh chứng cho sự giao thoa giữa văn hóa tín ngưỡng của người Hoa và văn hóa Phật giáo ở vùng đất Thừa Thiên Huế4. Một trong những ngôi chùa Ông nổi tiếng ở Huế là Quan Thánh Điện nằm ở đường Địa Linh5. Về ngôi chùa Ông này, sử chỉ ghi chép đơn giản: “Đền Quan Công ở xã Trạc Linh, huyện Hương Trà. Năm Minh Mệnh thứ 12 sửa lại, ban cho biển ngạch bằng đồng. Năm Tự Đức thứ 3 ban cho biển ngạch bằng gỗ thếp vàng”6. Tuy nhiên, ngôi chùa này được xây dựng từ rất sớm, mà theo đánh giá của nhà nghiên cứu Nguyễn Anh Huy là năm 1689 trước thời điểm chúa Nguyễn Phúc Chu xây dựng một đền thờ Quan Thánh nằm bên trái chùa Thiên Mụ7, mà đến thời Nguyễn cho dời về khu phố Gia Hội, mà trong Đại Nam nhất thống chí đã đề cập như sau: “Ở ấp Xuân Lộc ngoài Kinh thành, thờ Quan Thánh đế quân. Đầu niên hiệu Gia Long đền ở phía tả chùa Thiên Mụ, năm Thiệu Trị thứ 5 mới dời đến chỗ hiện nay, quy chế mở rộng thêm, hằng năm tế vào ngày tỵ tháng trọng xuân và trọng thu”8. Chùa Ông bao gồm điện thờ chính, điện thờ phụ, cổng tam quan và trụ biểu dưới bến thường, tất cả đều nằm thẳng trên trục dũng đạo. Trong đó, điện thờ chính thờ Quan Thánh Đế Quân được xây dựng với lối kiến trúc ba gian không chái, xây bằng gạch, mái lớp ngói liệt. Phía sau gian chính xây cơi nới một gian phụ lồi ra có kích thước chiều rộng 2,8m, chiều sâu 2,6m dùng làm nơi đặt bệ thờ. Cửa ra vào điện gồm ba bộ cửa bốn lá bằng gỗ ván huỳnh, lắp kính chiếu sáng9. Điểm đặc biệt ở ngôi chùa này là tượng thờ Quan Thánh được đánh giá là pho tượng thờ có kích thước lớn nhất, cao gần 3m.
![]() |
![]() |
Bàn thờ Quan Thánh tại các chùa Thiện Khánh (trên) và chùa Đông Thuyền (dưới) |
* Thờ trong các ngôi chùa Phật giáo
Quan Vũ lại được thờ tự trong chùa với vai trò là một vị Hộ Pháp Già Lam, giữ gìn cương giới cho chùa Phật, được liệt vào hàng ngũ hai vị thần hộ pháp cùng với Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát (韋駄尊天菩薩). Tại các ngôi chùa Huế, bàn thờ Quan Thánh nằm trong chánh điện thờ Phật hoặc nằm ở gian thờ riêng10, tiêu biểu như chùa Quy Thiện (phường An Tây), chùa Phò Quang (phường An Tây), chùa Phổ Tế (phường Thủy Xuân), chùa Đông Thuyền (phường Thủy Xuân), chùa Thiện Khánh (huyện Quảng Điền),… Bàn thờ Ngài luôn đầy đủ với ba vị là Quan Thánh, Quan Bình và Châu Thương, nhưng cũng có nơi chỉ có mỗi tượng Quan Thánh được người nghệ nhân điêu khắc trên gỗ. Ấn tượng sâu đậm về ngoại hình có tính chất đặc thù, khó có thể nhầm lẫn của Quan Thánh, đó là gương mặt đỏ và chiếc áo bào màu xanh. Không chỉ có ý nghĩa phân loại, màu đỏ còn có tính chất ước lệ, phản ánh một tâm thức văn hóa đặc trưng, đó là màu mang lại sự may mắn và đặc biệt để nhấn mạnh sự tương hợp giữa ngoại hình với tính cách (mặt đỏ - lòng son) theo quan điểm “tướng do tâm sinh”. Màu xanh (chữ Hán là thanh 青nghĩa là trong xanh, trong suốt, thanh cao), thì áo xanh cũng ít nhiều gợi nhắc đến tấm lòng trong sáng, thanh cao của người quân tử, bậc trượng phu11.
![]() |
![]() |
Bàn thờ Quan Thánh tại điện Huệ Nam (trên) và Sơn Chúa Điện (dướii) |
* Thờ trong các điện thờ Mẫu
Trong hệ thống thần linh của tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ ở Huế, người ta xem Quan Thánh là một vị hộ pháp bảo vệ, trừ tà ma, giữ gìn sự bình yên của điện thờ. Khác với tín ngưỡng thờ Mẫu ở vùng Bắc Bộ, tại vùng Huế Quan Thánh Đế Quân và Ngũ Hành Tiên Nương là những vị thần được tiếp nhận và trở thành một vị thần linh không thể thiếu. Trong những dịp thực hành nghi lễ lên đồng, người ta còn hầu cả Quan Thánh hoặc chỉ loan giá. Trong lễ hội truyền thống điện Huệ Nam (là một trong lễ hội quan trọng của Huế) có sự tham gia của các tỉnh thành ở miền Bắc và miền Nam đều có rước thần vị Quan Thánh.
![]() |
![]() |
Hình tượng Quan Thánh tại thánh thất Cao Đài Vĩnh Lợi |
* Thờ tại Thánh thất đạo Cao Đài
Đạo Cao Đài là một tôn giáo nội sinh ra đời vào năm 1926, với sự tuyên nhận về sứ mạng Đại đạo Tam kỳ Phổ độ. Với chủ trương “thay vì theo một đạo giáo mà thôi, hoặc Phật, hoặc Lão, hoặc Khổng, hoặc Gia Tô, thì đạo Cao Đài cùng một lúc đã đổ chung các đạo ấy vào một khuôn, gạn lọc lấy tinh hoa, loại trừ những gì phù phiếm. Như vậy thiết tưởng Cao Đài chính đã đại diện cho Việt Nam về phương diện tôn giáo”12. Theo đó, đạo Cao Đài thờ rất nhiều vị thần trên Thiên bàn, trong đó có Quan Thánh được xếp vào hàng Tam trấn Oai nghiêm (đại diện cho Tam giáo) từ trái qua phải gồm có: Quan Âm (Phật giáo), Lý Thái Bạch (Đạo giáo), Quan Thánh (Nho giáo). Tín đồ đạo Cao Đài tin tưởng Quan Thánh sẽ tái sinh để xây dựng thánh đạo, dựng nên thời kỳ Nho tông chuyển thế. Cũng vì thế, Quan Thánh trong đạo Cao Đài thường xuất hiện với hình ảnh đang cầm Kinh Xuân Thu với ý nghĩa tiễu trừ tà mị nhiễu loạn chính đạo. Tại Thánh Thất Vĩnh Lợi - một cơ sở thờ tự của đạo Cao Đài ở Thừa Thiên Huế, Quan Thánh được thờ trên Thiên Bàn bằng long vị và phía trước còn được đắp nổi tượng thờ rất tinh xảo.
![]() |
![]() |
Ban thờ Quan Thánh tại làng Dương Nỗ (trên) và làng Thanh Phước (dưới) |
* Thờ tại các làng xã
Tại các làng xã Thừa Thiên Huế, nhiều nơi thờ Quan Thánh để nhằm bảo vệ cho con dân trong làng luôn được bình an, may mắn. Vì thế, tại các đình làng và chùa làng đã thiết trí bàn thờ Quan Thánh để thờ phụng, tiêu biểu như làng Quy Lai, Khuôn Phò, Công Lương, Phú Lễ, Đức Bưu, Thạc Lại,… Đối với các ngôi đình làng, ban thờ Quan Thánh đa phần được thờ ở một miếu riêng nằm ở phía ngoài, được gọi là Quan Đế Miếu, còn trong ngôi chùa làng13 thì được thờ ở án tả có tượng tròn đầy đủ thuộc hạ, hay chỉ là bức ảnh giấy lồng kính14.
![]() |
Ảnh thờ Quan Thánh tại nhà một thầy pháp ở đường Nguyễn Lộ Trạch, thành phố Huế |
* Thờ tại tư gia của các thầy pháp
Trong tư gia của một số thầy pháp, Quan Công được thờ phụng với tư cách là thần độ mạng để giúp họ gia tăng thêm pháp lực và bảo vệ ngôi nhà của mình, tránh tà ma, khí xấu từ bên ngoài xâm nhập vào. Thông thường, ban thờ ông khá đơn giản, gồm một bức chân dung vẽ Quan Công theo công thức: mặt đỏ, mắt sáng, chân mày xếch, râu dài, mặc áo bào xanh, tay vuốt râu trong tư thế ngồi và hai bên có Quan Bình và Châu Thương.
3. Kết luận
Nối tiếp tín ngưỡng thờ Quan Thánh của người Hoa khi họ di dân đến Việt Nam, tục thờ này lại tiếp tục được xác lập và bắt rễ sâu trong đời sống tinh thần của người Huế. Những bàn thờ Quan Thánh cùng Quan Bình và Châu Thương tại các ngôi chùa Phật giáo, chùa làng, đình làng, điện thờ Mẫu Tứ phủ, thánh thất đạo Cao Đài Vĩnh Lợi và tại các ngôi nhà của người dân đã chứng minh sức ảnh hưởng và niềm tin mạnh mẽ đối với tục thờ này tại vùng Huế.
N.H.P
(TCSH417/11-2023)
----------------------------
1 Sơn Nam (2015), Lịch sử khai khẩn miền Nam, Nxb. Trẻ, tr.29.
2 Nguyễn Anh Huy (2018), Về ngôi chùa Ông ở thương cảng cổ Thanh Hà (Huế), truy cập tại địa chỉ: https://daidaovanuyen.blogspot.com/2018/08/14-chua-ong-o-thanh-ha-ao-uyen-thu-2019.html, ngày 9/7/2023.
3 Dương Thị Hải Vân (2018), “Tục thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu của người Hoa ở Thừa Thiên Huế”, Tạp chí Khoa học - Đại học Huế, Tập 127, số 6A, tr. 7.
4 Dương Thị Hải Vân (2018), “Tục thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu của người Hoa ở Thừa Thiên Huế”, sđd, tr. 16.
5 Nơi đây dưới thời chúa Nguyễn là thương cảng Thanh Hà.
6 Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí, Tập 1, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr. 230.
7 Nguyễn Anh Huy (2018), Về ngôi chùa Ông ở thương cảng cổ Thanh Hà (Huế), link đã dẫn.
8 Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí, Tập 1, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr. 88.
9 Đỗ Thị Thanh Mai (2010), Kiến trúc cổ khu vực Thanh Hà - Bao Vinh, trong Văn hóa - Lịch sử Huế qua góc nhìn làng xã phụ cận và quan hệ với bên ngoài, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr. 138.
10 Trước khi có Phong trào chấn hưng Phật giáo, trong chánh điện thờ Phật có thờ cả Ngọc Hoàng Thượng Đế, Quan Thánh Đế Quân và cả thờ Mẫu. Tuy nhiên khi các nhà sư Phật giáo thực hiện công cuộc chấn hưng nhà Phật, thì một số chùa đã đưa các bàn thờ thánh thần ra khỏi chánh điện, lập một gian thờ riêng. Tuy nhiên, một số ngôi chùa vẫn còn giữ bàn thờ Quan Thánh Đế Quân ở trong chánh điện.
11 Nguyễn Kim Châu (2019), “Hình tượng Quan Công qua câu đối trong chùa, miếu người Hoa ở An Giang”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 7 (569), tr. 25.
12 Nguyễn Văn Thọ (2012), Tinh hoa Cao Đài giáo, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, tr. 35.
13 Chùa làng do nhân dân trong làng bỏ tiền của ra để xây dựng. Ở Huế, chùa làng được xây dựng khá nhiều, hầu như làng nào cũng có chùa. Chùa làng gắn liền với nếp sống sinh hoạt, phong tục tập quán của dân làng. Chùa làng ngoài chức năng thờ Phật, Thánh, còn thờ cả thần Thành Hoàng, họ tộc, chi phái. Chùa làng gắn liền với các lễ tế, lễ hội của làng nên người đến chùa không chỉ có Phật tử mà tất cả con em dân làng đều có trách nhiệm với chùa.
14 Trần Đại Vinh (1995), Tín ngưỡng dân gian Huế, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr. 166.
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Kim Châu (2019), “Hình tượng Quan Công qua câu đối trong chùa, miếu người Hoa ở An Giang”, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 7 (569).
2. Nguyễn Anh Huy (2018), Về ngôi chùa Ông ở thương cảng cổ Thanh Hà (Huế), truy cập tại địa chỉ: https://daidaovanuyen.blogspot.com/2018/08/14-chua-ong-o-thanh-ha-ao-uyen-thu-2019.html, ngày 9/7/2023.
3. Đỗ Thị Thanh Mai (2010), Kiến trúc cổ khu vực Thanh Hà - Bao Vinh, trong Văn hóa - Lịch sử Huế qua góc nhìn làng xã phụ cận và quan hệ với bên ngoài, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
4. Sơn Nam (2015), Lịch sử khai khẩn miền Nam, Nxb. Trẻ.
5. Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam nhất thống chí,Tập 1, Nxb. Thuận Hóa, Huế. 6. Nguyễn Văn Thọ (2012), Tinh hoa Cao Đài giáo, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
7. Dương Thị Hải Vân (2018), “Tục thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu của người Hoa ở Thừa Thiên Huế”, Tạp chí Khoa học - Đại học Huế, Tập 127, số 6A.
8. Trần Đại Vinh (1995), Tín ngưỡng dân gian Huế, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.
VÕ NGỌC LANNếu cuộc đời người là một trăm năm hay chỉ là sáu mươi năm theo vòng liên hoàn của năm giáp, thì thời gian tôi sống ở Huế không nhiều. Nhưng những năm tháng đẹp nhất của đời người, tôi đã trải qua ở đó. Nơi mà nhiều mùa mưa lê thê cứ như níu giữ lấy con người.
LTS: Đại Học Huế đang ở tuổi 50, một tuổi đời còn ngắn ngủi so với các Đại học lớn của thế giới. Nhưng so với các Đại học trong nước, Đại Học Huế lại có tuổi sánh vai với các Đại học lớn của Việt như ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Trên hành trình phát triển của mình, Đại Học Huế đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, giáo dục, văn hoá ở miền Trung, Tây Nguyên, đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cho khu vực và cả nước. Nhân dịp kỷ niệm này, TCSH phân công ông Bửu Nam, biên tập viên tạp chí, trao đổi và trò chuyện với PGS.TS. Nguyễn Văn Toàn, Giám đốc Đại Học Huế. Trân trọng giới thiệu với bạn đọc cuộc trò chuyện này.
VÕ ĐẮC KHÔICó một thời người Huế loay hoay đi vỡ núi, phá rừng trồng khoai sắn. Có một thời người Huế tìm cách mở cảng nước sâu để vươn ra biển lớn, hay đón những con tàu viễn xứ xa xôi. Cả nước, các tỉnh thành láng giềng như Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng cũng đều ra sức làm như thế, sao ta có thể ngồi yên?
TRẦN ĐÌNH SƠNĐất Việt là cái nôi sinh trưởng của cây trà và người Việt biết dùng trà làm thức uống thông thường, lễ phẩm cúng tế, dâng tặng, ban thưởng từ hàng ngàn năm nay.
NGUYỄN XUÂN HOÀNGTừng là đất Kẻ Chợ – kinh đô triều Nguyễn xưa, ẩm thực Huế dựa trên nền tảng triết lý của cái đẹp, món ăn món uống phải ngon nhưng nhất thiết phải đẹp, vị phải đi với mỹ, thiếu mỹ thì không còn vị nữa.
TRƯƠNG THỊ CÚCTrong vô vàn những bài thơ viết về Huế, hai câu thơ của Phan Huyền Thư dễ làm chúng ta giật mình:Muốn thì thầm vuốt ve Huế thật khẽLại sợ chạm vào nơi nhạy cảm của cơ thể Việt Nam (Huế)
FRED MARCHANT(*) Trong chuyến viếng thăm Huế lần thứ hai vào năm 1997, tôi làm một bài thơ đã đăng trong tập thứ hai của tôi, Thuyền đầy trăng (Full Moon Boat). Bối cảnh bài thơ là một địa điểm khảo cổ nổi danh ở Huế. Có thể nói là bài thơ này thực sự ra đời (dù lúc đó tôi không biết) khi nhà thơ Võ Quê đề nghị với tôi và các bạn trong đoàn ghé thăm Đàn Nam Giao trước khi đi ăn tối ở một quán ăn sau Hoàng Thành bên kia sông Hương.
TRẦN KIÊM ĐOÀNDu khách là người trong mắt nhìn và qua cảm nhận của chính người đó.
TRƯƠNG THỊ CÚCTừ buổi hồng hoang của lịch sử, hình ảnh ban đầu của xứ Huế chỉ thấp thoáng ẩn hiện qua mấy trang huyền sử của đất nước Trung Hoa cổ đại. Tài liệu thư tịch cổ của Trung Quốc đã kể lại từ năm Mậu Thân đời vua Đường Nghiêu (2353 năm trước Công nguyên), xứ Việt Thường ở phương Nam đã đến hiến tặng vua Nghiêu con rùa thần từng sống qua ngàn năm tuổi.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCó một hiện tượng lịch sử lý thú, ở những nơi khác vốn dĩ bình thường nhưng ở Huế theo tôi là rất đặc biệt, đó là tại mảnh đất này sau hơn ba mươi năm ngày đất nước thống nhất, đã hình thành một thế hệ nữ doanh nhân thành đạt giữa chốn thương trường.
MINH TÂMTôi nghe bà con bán tôm ở chợ Bến Ngự kháo nhau: Dân nuôi tôm phá Tam Giang đã xây miếu thờ “Ông tổ nghề” của mình gần chục năm rồi. Nghe nói miếu thờ thiêng lắm, nên bà con suốt ngày hương khói, cả những người nuôi tôm ở tận Phú Lộc, dân buôn tôm ở Huế cũng lặn lội vượt Phá Tam Giang lễ bái tổ nghề.
PHẠM THỊ ANH NGA"Hiểu biết những người khác không chỉ đơn giản là một con đường có thể dẫn đến hiểu biết bản thân: nó là con đường duy nhất" (Tzvetan Todorov)
TRẦN ĐỨC ANH SƠNSau hơn 1,5 thế kỷ được các chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của Đàng Trong, đến cuối thế kỷ XVIII, Huế trở thành kinh đô vương triều Tây Sơn (1788 - 1801) và sau đó là kinh đô của vương triều Nguyễn (1802 - 1945).
TRƯƠNG THỊ CÚC Sông Hương là một trong những nét đẹp tiêu biểu của thiên nhiên xứ Huế. Sông là hợp lưu của hai nguồn Hữu Trạch, Tả Trạch, chảy qua vùng đá hoa cương cuồn cuộn ghềnh thác, đổ dốc từ độ cao 900 mét đầu nguồn Hữu trạch, 600 mét đầu nguồn Tả trạch, vượt 55 ghềnh thác của nguồn hữu, 14 ghềnh thác của nguồn tả, chảy qua nhiều vùng địa chất, uốn mình theo núi đồi trùng điệp của Trường Sơn để gặp nhau ở ngã ba Bàng Lãng, êm ả đi vào thành phố, hợp lưu với sông Bồ ở Ngã Ba Sình và dồn nước về phá Tam Giang, đổ ra cửa biển Thuận An.
Chúng ta biết rằng trong thời đại ngày nay, khi đầu tư xây dựng những cơ sở nhằm đáp ứng nhu cầu cao của người đi du lịch, văn hóa ẩm thực được xem như là cánh cửa đầu tiên được mở ra để thu hút du khách.
Chúng tôi đi thăm đầm chim Quảng Thái, theo ông Trần Giải, Phó chủ tịch huyện Quảng Điền.
I. Chúng tôi xin tạm hiểu như sau về văn hóa Huế. Đó là văn hóa Đại Việt vững bền ở Thăng Long và Đàng Ngoài chuyển vào Thuận Hóa - Phú Xuân.
Thúng mủng Bao La đem ra đựng bột. Chiếu Bình Định tốt lắm ai ơi. Tạm tiền mua lấy vài đôi. Dành khi hiếu sự trải côi giường Lào.
LTS: Tiến sĩ Nguyễn Thuyết Phong hiện đang dạy tại trường đại học Kent State thuộc tiểu bang Ohio, . Đây là một trong những bài trích ra từ cuốn Hồi ký âm nhạc, gồm những bài viết về kinh nghiệm bản thân cùng cảm tưởng trong suốt quá trình đi đó đây, lên núi xuống biển, từ Bắc chí Nam của ông để sưu tầm về nhạc dân tộc. Được sự đồng ý của tác giả, TCSH xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả.