Tuyết

14:55 18/01/2023


TED HUGHES

Nhà thơ Ted Hughes

Ted Hughes (1930 - 1998), nhà thơ, dịch giả người Anh. Hughes luôn được xem là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất thế hệ của mình. Năm 2008, tạp chí Times xếp Hughes ở vị trí thứ tư trong danh sách “50 nhà thơ Anh quốc vĩ đại nhất sau 1945”. Truyện ngắn Tuyết nằm trong cuốn The Difficulties of a Bridegroom, Picador USA, New York, 1995, (pg.41-51), tập truyện đầy uy lực về sự tàn hoại, niềm hãi sợ, “nỗi thăm thẳm tuyệt đối khó nhọc của tồn tại rực cháy qua gần như từng đoạn văn.” (Susan Salter Reynolds).

         Anh Nhi giới thiệu và dịch

 

Và để tôi nhắc đi nhắc lại điều này: dưới chân tôi là trái đất, phần nào đó của bề mặt trái đất. Nghĩa là, dưới tuyết, dưới chân tôi. Nó còn có thể là gì khác nữa? Nó, rắn chắc, tôi đoán, và bằng phẳng. Nếu nó thực sự không phải sỏi đá, nó phải là băng. Nó rất có thể là băng. Bất cứ gì mà nó là, nó là bằng chứng - bằng chứng có thật khả tính nhất - rằng tôi ở đâu đó trên trái đất, trái đất quen thuộc. Thật ngược đời, đào bới tuyết, chỉ để xác định bên dưới chính xác là gì, đất hay băng. Lớp tuyết này có thể dày đến hàng chục phút. Còn nữa, tuyết choán đầy không khí và chảy thành dòng trên mặt đất sẽ đổ đầy hố nhanh như tôi có thể đào, và phủ cả lên tôi - rất nhanh.

Đây có thể không phải hành tinh khác: không khí tuyệt đối tự nhiên, tuyệt đối trong lành.

Máy bay của chúng tôi buộc phải hạ cánh vì cơn bão bất thường này. Phi công cố tiếp đất, nhưng đánh giá sai sức mạnh của gió và vị trí của mặt đất. Tai nạn kinh hoàng. Thân máy bay cong vẹo và hở toang, và tôi bị ném ra xa. Chả biết gì sất về những gì cứu nguy được trong cơn hoạn nạn để thoát khỏi thảm họa, tôi cứ đi vào trong cơn bão tuyết và đổ quỵ, chuyện đó giải thích tại sao khi tôi tỉnh táo và đứng trên đống tuyết đang chôn vùi mình tôi không thấy cái phi cơ ấy hay những người đồng hành đâu cả. Chung quanh tôi là thứ tôi nhìn thấy suốt từ bấy. Chuyển động dày đặc thăm thẳm của tuyết. Tôi bắt đầu bước đi.

Tất nhiên, mọi thứ xảy ra trước bước đi thứ nhất đó có lẽ hoàn toàn khác bởi vì tôi không hề nhớ bất cứ điều gì về nó. Bất cứ cơ run rủi nào bỏ rơi tôi ở đây trong cơn bão rõ ràng đã hủy hoại ký ức của tôi. Điều duy nhất có thể nói được, là: nó chắc chắn có thể là bất cứ thứ gì. Sự thực bất định ấy, có thể nói thế, là một trong những thực tại của tôi. Vụ rơi máy bay là một giả thuyết tạm thời, chỉ thế thôi.

Không có cớ nào mà tôi lại không cầm cự nổi trong thời gian rất dài. Tôi dường như có nguồn dự trữ sinh lực bất thường. Giữ tinh thần vững chãi, đây là điều cốt yếu, gắn chặt nó vào những hy vọng hợp lý của tôi, và ru nó ngủ, khích lệ nó. Thôi miên nó một chút với một kiểu cầu nguyện ê a. Bởi vì khi tinh thần tôi vững chãi, sinh lực tôi vững chãi theo. Và đó   là điều quan trọng ở đây - sinh lực. Bất kể tôi có thể thận trọng ra sao, hoặc minh mẫn thế nào, mà không có sinh lực thì tôi đã chết tức thì. Nghĩ ngợi về chuyện đó cũng vô ích thôi. Khi sinh lực tôi cạn kiệt tôi đi tong, mọi thận trọng và mọi minh mẫn đi tong cùng với tôi. Miễn tôi có sinh lực tôi có thể sửa chữa lỗi lầm, khiến chúng sống thọ hơn, khiến chúng rảo cẳng nhanh hơn - chẳng hạn cái sai lầm không thể tưởng tượng nổi cho đến khi tôi biết là mình đang gây ra  ở chính thời khắc này. Bước đi này, cái bước này đây này, cái bước năm trăm, hoặc năm nghìn tiếp theo này - hoàn toàn sai lầm, hoàn toàn tuyệt đối phí hoài, trở lại nơi tôi đã đứng cách đây mười giờ. Nhưng chúng ta chấp nhận suy nghĩ ấy. Tinh thần tôi không phải bạn tôi. Ủng hộ tôi, bảo vệ tôi, nhưng cũng là địch thủ của  tôi - hoàn toàn không có ý định cho tôi thoát khỏi thảm họa này. Nếu tôi không suy xét có lẽ sẽ không có bất cứ khó khăn nào. Tôi sẽ chỉ đơn giản tiến lên, chả biết gì ngoài thành công từng bước một vượt qua chặng đường ấy. Điều phải làm là cứ thay đổi, cứ giữ tinh thần tôi trong sự thay đổi, nhận ra những suy nghĩ tê liệt lừa dối, phải, gây chết người này ở lần thứ hai chúng bước vào, tóm lấy chúng trước khi chúng có thể làm cuộc đào bới thọc xuống tủy sống.

Rồi nhẹ nhàng mà không có bất cứ sự thừa nhận nào khác đẩy chúng trở lại - ra ngoài, vào trong tuyết nơi chúng thuộc về. Và đó là nơi chúng thuộc về. Chúng là sự thâm nhập của tuyết, những xâm lấn của cái mênh mông không sự sống. Nhưng chúng bước vào quá gian giảo! Chúng ta là thật, chúng nói, hoặc ít nhất rất có thể là thật, và vì thế ngươi phải giải khuây cho chúng ta thậm chí cho chúng ta quyền sử dụng cuộc sống của ngươi, bởi vì trên hết ngươi đã tận hiến cho sự thật. Đấy là điệu bộ chúng mang, là kiểu cách chúng bước vào. Tôi biết gì về sự thật? Cứ như thể sự tận hiến đần độn cho sự thật  là luật lệ cuối cùng của tồn tại! Tôi chỉ mỗi lúc một thêm biết rõ hơn điều gì tốt cho tôi. Trí óc tôi có sự kinh  sợ này đối với sự thật dễ chừng, và trí óc tôi, tôi biết, tôi chứng minh điều ấy mỗi phút, không phải là tôi và không hề thề thốt sẽ giúp đỡ tôi. Tôi sẽ dối trá ư? Tôi phải sống sót - đó là sự thật thiêng liêng như bất cứ sự thật thiêng liêng nào, và khi những sự thật đói khát ngốn ngấu  những  sự thật buồn ngủ tôi sẽ tiêu hóa mỗi một sự thật có thể tiêu hóa khác ra chất sống, sức khỏe và sinh lực của mình, và những sự thật tôi không thể tiêu hóa tôi khạc ra, bởi vì trong tình huống này dự định sống sót của tôi là một cái miệng, một bộ máy tiêu hóa, có thể nói thế, nhờ chúng, tôi sống. Nhưng những cái thứ khác này đây! Tôi thư giãn chốc lát, tôi để trí óc yên tĩnh một chút - và chúng hoàn toàn chiếm cứ. Chúng lao vào tôi, hả hê, tàn nhẫn. Không có chuyện chúng có ý đồ hay năng lực. Năm giây lơ đãng, và chúng tấn công. Sức mạnh biến khỏi tôi, gan ruột tôi tan thành nước, nhận thức của tôi u ám và thu rút lại, tôi phải dừng lại.

Những thực tại của tôi là gì? Tôi không có những thực tại xác định nào.

Đi sáu bước năm giây một, tôi liệu tính - cho phép những giấc ngủ đều đặn ngắn ngủi - tôi đã bước qua cơn bão này trong vòng năm tháng và suốt thời gian đó đã đi một quãng độ chừng bề rộng của Đại Tây Dương giữa Southampton và New York. Hai thực tại rồi nhá. Và thực tại thứ ba: năm tháng trôi qua trạng thái tranh tối tranh sáng này của tuyết không tối đi cũng chẳng sáng lên.

Bởi vậy.
 

Minh họa: Ngô Lan Hương


Dường như không có lý do để nghi ngờ tôi đang ở đâu đó bên trong Bắc cực hoặc Vòng tròn Nam cực. Đó là một niềm an ủi, nó có nghĩa những cơ hội sống sót của tôi không chỉ có độc mỗi điềm hẩm hiu. Những gã đi hết cả chiều dài của châu Á chỉ để giải khuây.

Rõ ràng tôi không di chuyển theo một đường thẳng. Nhưng chuyện đó không nhất thiết làm tôi âu lo. Có lẽ tôi đã phạm sai lầm ở bước đi đầu tiên, đi ngược gió thay vì xuôi theo chiều gió. Đi ngược chiều gió tôi phung phí sức lực quý giá và trận tuyết này ngáng trở mắt và miệng tôi. Nhưng tôi phải tin vào gió. Sự bỏ mình cho sự dẫn lộ của gió là nền tảng của    sự vững chắc tinh thần của tôi. Gió không chỉ là la bàn của tôi. Thực ra, tôi chả hề phải nghĩ về nó như một la bàn. Gió là luật của tôi. Với tư cách một la bàn không có thứ gì vô dụng hơn. Không cần nói mãi về chuyện đó. Rất có thể, quả thực, và điều tôi không cần giấu chính mình, rằng cơn gió này sẽ dẫn tôi tới lui vào một mê lộ bé con kín bưng - luôn thay đổi quá đỗi âm thầm với tôi để mà để mắt tới sự đổi thay. Hoặc giả, mặt trời đang quay quanh đường chân trời, dường như có lẽ trận gió đang đu đưa với nó suốt 360 độ hai mươi tư giờ một lần, xoay tôi lại khi tôi cứ để mặt mình ngược hướng nó trong một vòng tròn khít khao, đường kính không hơn bảy dặm. Điều này giải thích một thực tại khác rằng bất chấp khoảng cách rộng lớn tôi đã đi mặt đất vẫn bằng phẳng, chính xác như khi tôi khởi hành. Một cái hồ đóng băng. Điều này rất có thể và tôi phải quen với nó mà không để nó chế ngự mình, và quên mất những lợi ích thực sự của nó.

Nỗi cám dỗ tin tưởng vào may mắn, vào bản năng và vào hành động cắt ngang trận gió, bị cấm tiệt. Những tác động tới hệ thống tự tin của tôi sẽ biến thành tai họa. Sự phán đoán của tôi sẽ tất nhiên dẫn tôi đi quanh một vòng tròn. Tôi sẽ phải tạo ra những thay đổi có cân nhắc về hướng đi để phá vỡ vòng tròn đó - chỉ đi quanh một vòng tròn lớn hơn hoặc một vòng tròn theo hướng ngược lại. Bởi vậy tạo ra nhiều thay đổi hơn. Những thay đổi đột ngột hơn và mở rộng hơn, những thay đổi của những thay đổi của tôi - tất cả là để tránh một kẻ địch chẳng biểu hiện chút dấu hiệu nào của mình cứ như thể không hề tồn tại. Có thể thấy rõ mọi chuyện sẽ kết thúc ở đâu. La hét, chạy và đủ thứ khác tương tự. Lảo đảo loanh quanh như một kẻ bị chặn đường bởi một đám du thủ du thực. Rơi, bò. Cứ thế. Tuyết.

Không. Tất cả những gì tôi phải làm là chịu đựng: nghĩa là, cứ đối mặt với gió. Đối mặt với gió, bám chặt vào tinh thần, và mọi thứ khác sẽ theo sau một cách tự nhiên. Không cần mảy may âu lo. Bất cứ khi nào vào lúc này đêm vùng cực sẽ tới, khiến thời tiết đổi thay hoàn toàn - sao tránh được. Làm quang đãng bầu trời và phơi bày chiếc la bàn hoàn hảo của những vì sao.

Những thực tế ấy hết sức ủng hộ tôi. Tôi có thể gần như tin vào Mệnh Trời. Hơn hết, nếu một tình huống hơi - chỉ hơi - khác đi! Nếu, chẳng hạn, thay vì bước trong một cơn bão tuyết trên một mặt bằng vững chắc tôi đi đến chỗ biết mình đang rơi không ngừng qua đám mây-tuyết. Rồi tôi lẽ ra phân vân rất nghiêm túc liệu tôi có ở trong vực thẳm hay không. Hoặc giả không khí tình cờ có, chẳng hạn, mùi amoniac. Tôi lẽ ra đã không sống sót hơn một khắc. Và trong thời khắc trước khi chết vì ngạt tôi sẽ chắc chắn bị thuyết phục bật khỏi trái đất rơi vào một hành tinh không sự sống nào đó. Hoặc giả nếu tôi không có thân thể mà chỉ có cánh tay và cẳng chân mọc ra từ đầu, toàn bộ hệ thống tự tin của tôi sẽ mất phương hướng ngay từ phút đầu tiên. Những giấc mơ của tôi, chẳng hạn, sẽ thành ra vô nghĩa với tôi, hoặc đúng hơn thành ra một lý luận về sự vô nghĩa của tôi. Tôi sẽ chết gần như tức thời, vì tận độ hoang mang. Cũng sẽ không cần những khác biệt cực đoan đến thế. Giả như tôi không có đôi giày da hảo hạng, đôi tất, áo khoác, găng tay và mũ chùm, cái lạnh sẽ kết liễu tôi chớp mắt.

Và nếu tôi có gấp đôi áo quần, tôi sẽ ngồi đâu khi không có cái ghế của mình? Chiếc ghế của tôi khá quan trọng như một trong những lá phổi của tôi. Giống như những lá phổi của tôi, quả thực, vì không có nó, tôi tất sẽ chết. Tôi sẽ ngủ đâu? Nằm trên tuyết. Nhưng sõng soài, như tôi phát hiện ra, tôi bị chôn vùi trong tuyết chỉ chưa đầy một phút, và cái lạnh bắt đầu chiếm cứ bàn tay, bàn chân và mặt tôi. Ngủ thành ra là không thể. Nói cách khác, tôi sẽ nhanh chóng sụp đổ vì kiệt sức và bị chôn vùi. Kỳ thực, tôi tháo yên ghế, cắm ghế vào trong tuyết, ngồi lên nó, đặt chân lên thanh ngang giữa hai chân ghế trước, và có thể theo cách ấy ngủ trọn mười phút trước khi tuyết phủ kín người.

Chuỗi ngẫu nhiên của mệnh trời là không cùng. Hoặc đúng hơn, như một xích thư, nó hoàn chỉnh mà không có một mắt xích khuyết thiếu nào làm lộ ra hay thủ tiêu cái còn lại. Ngay cả những giấc mơ của tôi cũng là một phần của nó. Chúng rắn rỏi và thiết yếu như bất cứ một mắt xích nào, bởi vì không còn nghi ngờ gì nữa chúng là bản sao chính xác toàn bộ cuộc đời trước đây của tôi, của thế giới như chính bản thân nó và như tôi biết nó - toàn bộ mà không có một chi tiết mâu thuẫn. Nhưng nếu chứng quên của tôi chỉ hơi mạnh thêm - nó chỉ cần thế thôi. Bởi vì không có chứng cứ ấy về thế giới và căn tính của mình tôi có lẽ đã biết không có kết quả gì trong việc tiếp tục cuộc thử thách. Tôi có thể chỉ nhìn, thở và chết, như một con chim non rơi khỏi tổ.

Mọi sự vừa vặn. Và kết quả - sự sống sót của tôi, và quyết định sống sót của tôi. Tôi nên vui mừng.

Chiếc ghế là một kiểu tiện lợi: không có gì bí ẩn về nó cả. Một kiểu ghế nông trại: Vừa vặn hoàn hảo với những giấc mơ của tôi, quả thật là quần áo, thân thể và mọi động lực của tinh thần tôi. Nó làm bằng gỗ, quết sơn đen, mặc dù ở vài chỗ phơi ra lớp sơn nâu xám dưới màu đen. Một trong chín thanh chắn phía sau bị khuyết và đứa trẻ nào đấy - tôi đồ rằng nó là một đứa trẻ - đã dán miếng kẹo cao su vào trong lỗ hổng. Rõ ràng chiếc ghế được sử dụng nhiều, và không quá nâng niu. Chân ghế phía trước bên phải bị nhai nham nhở, rõ ràng bởi một con cún, và trên ghế cả màu sơn đen lẫn nâu xám đều đang mòn phơi ra thớ sậm của loại gỗ nhạt màu. Nếu tất cả điều này không phải ví dụ cuối cùng về một hiện thực bên ngoài hiện thực của riêng tôi, của hiện thực của thế giới nó đến từ, thế giới tôi mơ lại trong những giấc ngủ của mình - thì tôi cứ nằm xuống tuyết và chấm hết.

Chiếc yên ghế ấy không cần phải làm tôi ưu phiền. Thế giới, cho đến khi tôi mơ thấy nó vào lúc này, không có cái yên ghế nào như thế, thật sự. Nhưng bởi vì tôi chưa mơ mộng bất cứ điều gì kể từ sau sinh nhật tuổi hai mươi sáu của mình, chiếc yên ghế chắc có lẽ được sáng chế vào giữa lúc đó và khi thảm họa của tôi xảy ra. Có lẽ nó bây giờ được sử dụng phổ biến. Hoặc nó có thể là đồ trang bị của trò chơi hợp thời đã thành mốt vào tuổi hai mươi bảy của tôi hay sau đó, cái trò chơi tôi đã thành ra nghiện. Ngồi trên những đỉnh tuyết trong những cái ghế của thế kỷ mười chín. Hoặc có lẽ tôi nuôi lớn niềm đam mê vẽ phong cảnh vùng cực và cùng với nó niềm đam mê cho cái ghế biệt lệ này như là cái ghế ngồi vẽ của tôi, và có một chiếc yên ghế được thiết kế đặc biệt. Một kỳ cục may mắn. Nhưng tất cả nằm trong sự tịch mịch tăm tối. Có nhiều điều tôi chưa mơ. Từ tuổi hai mươi ba và hai mươi tư tôi gần như không có gì - một vài sự việc vô nghĩa. Không gì hết từ sau sinh nhật tuổi hai sáu. Phần còn lại, dù vậy sẽ hoàn thiện, điều đó đòi hỏi bất cứ khi nào vào thời khắc hiện tại tôi nên làm đầy tuổi hai mươi ba và tuổi hai mươi tư của mình, và quan trọng hơn, tuổi hai mươi bảy, hay phần lớn của nó, cùng với một trần thuật chính xác về thảm họa và nguồn gốc chiếc ghế của mình.

Dường như có chút hoài  nghi về tuổi tác của tôi. Nếu tôi mơ thấy cuộc đời mình theo trật tự niên đại sẽ có lý do thực sự để âu lo. Tôi có lẽ không biết là đã tới bao nhiêu tuổi. Tất nhiên, nếu tôi đột nhiên mơ thấy thứ gì đó từ giữa tuổi hai sáu của mình tôi sẽ phải tổ chức lại mọi suy nghĩ. Điều thực sự thuyết phục tôi về tuổi trẻ của mình là sức lực của tôi. Vẻ ngoài thân thể tôi chả nói với tôi điều gì. Quả thực, từ bàn tay và bàn chân của tôi - là tất cả tôi dám phơi ra - người ta có thể tin tôi đã  vài trăm tuổi, hoặc thậm chí chết rồi, chúng quá đen và quắt queo. Nhưng sự gầy mòn đó có thể hiểu được, xét đến chuyện trong năm tháng nay tôi sống chỉ bằng sức mạnh ý chí, mà không hề thèm muốn thức ăn.

Tôi có một công việc để trở lại, và cha mẹ tôi sẽ tuyệt vọng. Và Chúa biết điều gì xảy ra với Helen. Tôi đã cưới cô ấy chưa? Tôi không có nhẫn cưới. Nhưng chúng tôi đã đính hôn. Và thêm một xác nhận về tuổi trẻ của tôi rằng những cảm xúc của tôi cho cô ấy lúc xưa - mạnh mẽ hơn, thực ra, phải, mạnh hơn nhiều lắm, mặc dù nói cho ngay những cảm xúc dường như dành cho cô ấy có lẽ dễ chả là gì cả trừ nỗi khao khát tuyệt vọng để trở lại với thế giới nói chung - một khao khát sử dụng niềm yêu thích trước đây của tôi với Helen như một loại hình thức hoặc kiểu mẫu. Có thể, rất có thể, rằng tôi thực ra đã quên cô ấy, thậm chí rằng tôi đã sáu mươi tuổi, rằng cô ấy đã chết ba mươi tư năm rồi. Những sự việc nào đó có lẽ rất khác với điều tôi hình dung. Nếu tôi đưa sự trôi dạt của những ý nghĩ này tới tận độ của lý lẽ sẽ không có bằng chứng tuyệt đối nào rằng công việc của tôi, cha mẹ tôi, Helen và toàn bộ thế giới không phải chỉ là sự sáng chế của tôi, những huyễn ảo trí tưởng tượng của tôi ứng tác ra dựa trên những chủ đề về hình thức, áo quần, chiếc ghế của tôi và đặc tính môi trường hiện tại của tôi. Tôi không ở tình thế có thể chắc chắn về bất cứ điều gì.

Nhưng có nhiều điều để  tồn  tại, may mắn thay, hơn là xem xét những khả tính. Có xác tín, đức tin. Nếu không có, tôi sẽ ở đâu chứ. Thời khắc tôi cho phép một trong những “khả tính” ấy trở  nên  thân  thiết  tí ti thôi - một phù phiếm lớn lao kẹp chặt lấy tôi như nó có hình hài, bằng trái tim, như thể tự thân các cơ quan hết hy vọng về cuộc sống và sẵn sàng bỏ cuộc.

Can đảm và bình tĩnh. Hai điều đó nên trở thành lời khấn nguyện của tôi. Tôi nên lặp lại lời ấy, lặp lại nó như những tín đồ Phật giáo lặp lại câu chú niệm “Án ma ni bát di hồng” của họ. Lặp lại nó cho đến khi nó tự lặp lại trong chính trái tim tôi, đến khi mỗi nhịp tim đẩy nó đi suốt cả cơ thể tôi. Can đảm và bình tĩnh. Đây là thế giới, đừng nghĩ nhiều về nó.

Chiếc ghế của tôi sẽ giữ tôi tỉnh táo. Ghế của tôi, ghế của tôi, ghế của tôi - tôi có lẽ gần như nhắc lại lời đó. Tôi biết mỗi dấu vết trên nó, mỗi thớ gỗ. Quá gần và thật! Mình nó xác nhận một vũ trụ, toàn thể vũ trụ, bằng đồ mộc rắn đanh của nó, sự sống động của nó, thiết kế dáng dấp xinh đẹp của nó - quá tao nhã, quá mạnh mẽ. Và trong khi tôi có trò chơi ấy tôi chả cần phải sợ điều gì hết. Mặc dù nguy hiểm. Cám dỗ, nguy hiểm, nhưng - đủ để biết rằng niềm vui là của tôi. Tôi đặt chiếc ghế xuống trên tuyết, cho phép mình nghĩ tôi sẽ ngủ, nhưng thay vì ngồi tôi bước lùi vài bước vào trong tuyết. Tôi nghĩ gì về điều đó? Lúc đầu, tôi không dám nhìn xa khỏi nó. Tôi chưa bao giờ trước đây để nó khỏi tầm tay mình, chưa bao giờ buông nó trong khoảng giữa nới lỏng nó và ngồi xuống trên nó. Nhưng rồi tôi buông nó và bước vào trong tuyết. Tôi chưa bao giờ nghe tiếng mình trước đây. Tôi kinh ngạc trước cái âm thanh ráng sức thoát ra khỏi bản thân tôi. À, tôi cần những đền bồi. Và trò chơi ấy đánh thức những sức lực của tôi, đúng thế, theo một nghĩa khá thiết thực. Sau trò chơi, tôi có thể chạy. Đấy là thời khắc hiểm nguy, mặc dầu, khoảnh khắc hết sức mất kiên nhẫn khi tôi có thể dễ dàng mất kiểm soát và bùng nổ, đi theo bản năng, ném mình vào may mắn, và chạy ngang trận gió.

Nhưng có một sự nguy hiểm hơn. Nếu tôi chạy ngang trận gió tôi khá nhanh minh mẫn trở lại, trở mặt lại hướng gió. Chính trò chơi, giai đoạn phát triển nó chạm tới, là nguy hiểm lúc này. Tôi không chỉ bước lùi nữa. Tôi đặt ghế xuống, ngoảnh mặt đi và bước vào trong trận bão, đếm bước chân mình cẩn thận. Đến bước mười bốn tôi dừng lại. Mười lăm là giới hạn tầm nhìn trong dòng tuyết đặc sệt này, bởi vậy ở bước mười bốn tôi dừng lại, và quay đi. Hãy để những điều ấy trở thành nguyên tắc. Hãy để tôi cố định trò chơi ở đấy. Bởi vì lúc đầu tôi chẳng nhìn thấy gì. Thế là đủ cho tôi. Mọi chốn, rót đầy sự im lặng nâu xám, một im lặng giống như một áp lực, như một xuất hiện chầm chậm để chịu đựng áp lực không thể đong đếm nào đó, quá từ từ đến không thể nhận ra. Nếu tôi chỉ ngồi đó đầu óc tôi sẽ rạn vỡ trong giây lát. Nhưng tôi tập trung, tôi rút niềm kinh sợ của mình khỏi sự trống rỗng và nhìn một cách châm chọc vào nó. Lúc đầu mọi thứ như thường - như tôi đã thấy nó trong năm tháng. Rồi trái tim tôi bắt đầu đập bất thường bởi vì tôi dường như lờ mờ thấy chút gì mơ hồ, một cái bóng ngập ngừng sâu bên trong sự rối loạn nâu xám, biến mất rồi sẫm lại, vươn cao rồi đổ sụp. Tôi bước một bước về phía nó và dùng tất cả sức mạnh ý chí để dừng lại lần nữa. Cái bóng vẫn thế. Thêm một bước nữa. Cái bóng dường như sẫm thêm một chút. Rồi nó tan biến và tôi lao hai bước về phía nó nhưng đột ngột ngừng lại bởi vì khá rõ ràng, nó không chuyển động nữa. Chầm chậm tôi bước về phía nó. Những nguyên tắc là tôi giữ mình trong sự kiểm soát, và tôi kiềm chế mọi nức nở hay la hét, mặc nhiên không thể giữ hơi thở đều đặn - ít nhất là vào lúc đó, và thẳng tiến tới nơi cái bóng hiện hình thành cái ghế. Trong màn tan biến nâu xám thênh thang đó - chiếc ghế của tôi! Những bông tuyết đang phủ đầy chân ghế và trượt giữa những thanh chắn, va vào chúng, bám vào và bò trên mặt ghế. Việc kiểm soát lấy mình vào lúc đó không còn trong giới hạn quyền năng con người. Quả thực tôi có vẻ ít nhiều mất ý thức lúc đó. Tôi chắc chắn không chịu trách nhiệm cho cái kẻ la hét, khóc lóc đổ nhào lên ghế, ôm lấy nó, hôn nó, cọ má vào nó. Khi những bông tuyết đập khẽ khàng và chảy tràn găng tay và ghế tôi bắt đầu gọi tên chúng. Tôi săm soi mỗi bông tuyết như thể mỗi bông tuyết  là một gương mặt sống động, đầy những biểu cảm vô ngôn, và tôi gọi chúng - Willy, Joanna, Peter, Jesus, Ferdinand, bất cứ cái tên nào nảy ra trong đầu tôi, và thét gọi chúng và gật đầu và cười. Thế đấy, sự điên rồ đủ vô hại.

Cám dỗ vượt quá mười bốn bước bây giờ thành ra đau đớn. Bước sâu vào trong cơn bão. Bốn mươi bước. Rồi trở lại, săm soi. Mười lăm bước, hai mươi bước. Dừng. Một cái bóng.

Chuyện đó không phải sự điên rồ vô hại. Giả như tôi để cái ghế như thế có khả năng tôi sẽ không bao giờ tìm thấy nó lần nữa. Những dấu chân của tôi không tồn tại trong làn sóng dội của tuyết. Vài tuần sau, tôi sẽ vẫn tìm kiếm, quay trong những  vòng tròn lớn, kéo căng  ở  mỗi thời khắc để tọc mạch nhìn vào một cái bóng trồi ra khỏi khoảng không độc những nâu xám. Chiếc ghế của tôi trong khi ấy cách xa hàng trăm dặm trong bão tuyết, bất động - những chân ghế gọn ghẽ và lưng ghế thanh nhã, đôi khi bị chôn vùi, đôi khi lại phơi hở. Và trong hàng thế kỷ, rất lâu sau khi tôi đã xong chuyện, vẫn ngồi đó, nguyên vẹn với những dấu răng của nó và một thanh chống bị khuyết, đợi chờ một cái bóng đang sẫm lại, đến gần, từ hư vô và thét gọi nó và đổ sầm lên nó và sở hữu nó.

Nhưng chiếc ghế của tôi ở đây, trên lưng tôi, đây này. Chả có cơ tôi đánh mất nó. Không bao giờ, chừng nào tôi còn giữ kiểm soát, còn giữ vững tinh thần. Mọi thực tại đứng về phía tôi. Tôi chẳng phải làm gì ngoài chịu đựng.

T.H.
(TCSH406/12-2022)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • AZIt NêxinNgày xưa, nhà vua ở một nước nọ có một kho bạc. Nghe đồn rằng trong kho bạc của nhà vua cất giữ một báu vật vô giá duy nhất của nước đó. Mọi người đều tự hào về báu vật mà tổ tiên đã để lại cho họ. “Mặc dầu chúng ta chẳng có gì cả, nhưng tổ tiên đã để cho chúng ta giữ một vật quý”, họ thường tự hào như vậy mà quên đi cảnh túng thiếu của mình.

  • AZIT NÊXIN (1915 - 1995)Một con chó chạy xồng xộc vào tòa báo "Tin tức đô thành”.

  • Nhà văn Mỹ Carson Mc Cullers sinh 1917. Các tác phẩm chính của bà là: Trái tim là kẻ đi săn cô độc (1940), Thành viên của đám cưới (1946), Khúc ballad của quán cà phê buồn (1951), Ngọt như dưa chua và sạch như heo (1954)…

  • Kamala Das tên thật là Kamala Suraiyya, sinh ngày 31.3.1934 tại Punnayurkulam, quận Thrissur, thành phố Kerala, vùng tây nam Ấn Độ. Bà là nhà văn nữ nổi tiếng của Ấn Độ. Bà sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Malayalam. Bà sáng tác thơ và tiểu thuyết ngắn bằng tiếng Anh. Bà chủ yếu nổi tiếng trong thể loại truyện ngắn. Trong sự nghiệp sáng tác, bà đã có nhiều giải thưởng văn học, trong số đó là: Asian Poetry Prize, Kent Award for English Writing from Asian Countries, Asan World Prize, Ezhuthachan Award và một số giải thưởng khác nữa. Ngày 31 tháng Năm, 2009, bà mất tại bệnh viện thành phố Pune, Ấn Độ, thọ 75 tuổi.

  • HERTA MULLERHerta Mueller vừa được trao giải Nobel văn học 2009 vì đã mô tả cảnh tượng mất quyền sở hữu bằng một lối thơ cô đọng và một lối văn thẳng thắn. Truyện ngắn này rút từ tập truyện Nadirs (1982) là tác phẩm đầu tay của bà.

  • SHERMAN ALEXIENgay sau khi mất việc ở văn phòng giao dịch của người Anh điêng, Victor mới biết cha anh đã qua đời vì một cơn đau tim ở Phoenix, Arizoan. Đã mấy năm nay Victor không gặp cha, anh chỉ nói chuyện với ông qua điện thoại một hay hai lần gì đó, nhưng đó là một căn bệnh di truyền, có thực và xảy ra đột ngột như xương bị gãy vậy.

  • KOMATSU SAKYOKomatsu Sakyo sinh tại Osaka (Nhật Bản) (28/1/1931). Nhà văn chuyên viết  truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto, chuyên ngành Văn học Italia. Từ năm 1957 là phóng viên đài phát thanh Osaka và viết cho một số báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí “SF Magasines” tổ chức. Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Có bốn tiểu thuyết đã được dựng thành phim.

  • FRANK R- STOCKTONCách đây năm năm, một sự kiện kì lạ đã xảy đến với tôi. Cái biến cố này làm thay đổi cả cuộc đời tôi, cho nên tôi quyết định viết lại nó. mong rằng nó sẽ là bài học bổ ích cho những người lâm vào tình cảnh giống tôi.

  • MIKHAIN SÔLÔKHỐP                Truyện ngắn Mùa xuân thanh bình đầu tiên đã về lại trên sông Đông sau những năm tháng chiến tranh. Vào cuối tháng Ba, những cơn gió ấm áp cũng đã thổi đến, và chỉ sau hai ngày tuyết cũng đã bắt đầu tan trên đôi bờ sông Đông. Khắp mọi ngả đường việc đi lại cũng vô cùng khó khăn.

  • KAHLIL GIBRANNguồn: A Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng của Kahlil Gibran), Anthony Rizcallah Ferrris dịch từ tiếng Arập, Martin L. Wolf biên tập, Nxb Citadel Press, New York, HK, 1951.

  • ROBERT ZACKS (ANH)Nhân ngày quốc tế phụ nữ, tôi và anh tôi bàn nhau mua quà tặng mẹ. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi thực hiện điều này.

  • GUY DE MAUPASSANTÔng Marrande, người nổi tiếng và lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học nghiên cứu khoa học tự nhiên đến thăm và chứng kiến, trong vòng một giờ đồng hồ, một trong những bệnh nhân tại nhà điều trị do ông lãnh đạo.

  • GUY DE MAUPASSANTGia đình Creightons rất tự hào về cậu con trai của họ, Frank. Khi Frank học đại học xa nhà, họ rất nhớ anh ấy. Nhưng rồi anh ấy gửi thư về, và rồi cuối tuần họ lại được gặp nhau.

  • JAMAICA KINCAIDNhà văn hậu hiện đại Anh J. Kincaid sinh năm 1949. Mười sáu tuổi, bà đến New York làm quản gia và giữ trẻ. Bà tự học là chính. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của bà: “Giữa dòng sông” (1984) nhận được giải thưởng của viện hàn lâm Văn chương và Nghệ thuật Mỹ; còn các tiểu thuyết “Annie” (1985), “Lucky” (1990) được đánh giá cao.

  • SAM GREENLEE (MỸ)Sam Greenlee sinh tại Chicago, nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết.Ông cũng đóng góp nhiều truyện ngắn, bài báo trong “Thế giới da màu” (Black World); và xem như là bộ phận không thể tách rời trong văn nghiệp, bởi ông là nhà văn da màu. Tuy nhiều truyện ngắn của ông vẫn được thể hiện theo lối truyền thống, nghĩa là vào cửa nào ra cửa ấy; nhưng cái cách mở rộng câu chuyện ở giữa truyện, bằng lối kể gần gũi nhiều kinh nghiệm; đã gây được sự thú vị. Đọc “Sonny không buồn” qua bản dịch, dĩ nhiên, khó thấy được cái hay trong lối kể, bởi nếp nghĩ và văn hoá rất khác nhau; nhiều từ-câu-đoạn không tìm được sự tương đương trong tiếng Việt. Cho nên đọc truyện này, chỉ có thể dừng lại ở mức, cùng theo dõi những diễn tiến bên ngoài cũng như sự tưởng tượng bên trong của Sonny về môn bóng rổ, cả hai như một và được kể cùng một lúc.

  • DƯƠNG UÝ NHIÊN (Trung Quốc)Tôi không thể thay đổi được thói quen gần gũi với cô ấy nên đành trốn chạy ra nước ngoài. Tôi đã gặp được em. Khi đăng tác phẩm “Không thể chia lìa” trên một tạp chí xa tít tắp và dùng bút danh, tôi cho rằng mình không một chút sơ hở. Tôi nhận tiền nhuận bút và mua hai chai rượu quý nồng độ cao trên đường trở về. Tôi muốn nói với em điều gì đó nhân kỷ niệm ngày cưới.

  • S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.

  • WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?

  • SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.

  • SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar  trong một gia đình nông dân  thuộc  tập đoàn sản  xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan  trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.