Từ những rêu phong quán cà phê phố cổ

09:11 09/07/2012

MẠNH TIẾN

Rời Mèo Vạc về Đồng Văn, ngồi sau lưng anh xe ôm người Hmông, tôi vượt Mã Pì Lèng trong một sáng mùa hè mưa rả rích. Cung đường núi hiểm trở, liên tục gấp ngược khủy tay. Cheo leo. Một bên thăm thẳm đá, cao vun vút. Một bên hun hút sâu, những thung lũng.

Phố cổ Đồng Văn - Ảnh: vccinews.vn

Không phải là ngày nắng để thấy cái đẹp hùng vĩ của cảnh đèo cao và mềm mại bên dưới là dòng Nho Quế uốn lượn. Trước mắt tôi chỉ còn cái mưa nhạt nhòa làm mờ mịt núi rừng. Từ đỉnh Mã Pì Lèng nhìn xuống trong buổi mưa, bao la một màu trắng sương khói. Có cái gì giống một giấc mộng.

Cứ thỉnh thoảng, trên cung đường núi hiểm trở ấy, tôi lại gặp một vài người phụ nữ Hmông. Lòe xòe váy áo. Rực rỡ trong cái ảm đạm núi rừng, người phụ nữ Hmông cứ khiến xui liên tưởng tôi mơ về những câu thơ tươi tắn, đột ngột hiện lên giữa núi và đá sắc nhọn lởm chởm hay có khi, thấp thoáng ẩn hiện trong các nương ngô của vùng cao Hà Giang. Đồng bào Hmông trắng là dân tộc thiểu số đông nhất ở Mèo Vạc và Đồng Văn, bên cạnh đó còn có người Dao, Tày, Pu péo, Lô lô, Cờ lao…

Tới Đồng Văn, vào ở khu phố cổ nổi tiếng, nơi mà cách đây hàng trăm năm, người Pháp đã có ý định xây dựng thành một trung tâm nơi miền cao phía cực Bắc Tổ quốc hòng dễ bề quản lý những sắc tộc mang cá tính kiêu hùng miền núi đá. Các nếp nhà nơi đây phần lớn là nhà của người Tày, xen ghép kiến trúc Trung Hoa (mới cư tụ lẫn vào gần đây vài ngôi nhà người Hmông), tạo nên nét giao thoa văn hóa độc đáo của các sắc người vùng cao. Những nếp nhà Tày cổ xưa vẫn còn lưu giữ được dấu tích văn hóa trăm năm của dân tộc mình. Nhìn người phụ nữ Tày với trang phục truyền thống áo dài một sắc (thường đen hoặc xanh), nhẹ ôm lấy cơ thể, điểm xuyến chiếc kiềng cổ bạc làm cho tâm hồn tôi chìm trong một cái đẹp nền nã, tinh tế, hơi vương chút buồn mà sang của người Tày. Cảm giác ấy sẽ lên đến cực độ khi đó lại là một nhan sắc Tày, ôm cây đàn tính, người cũng như đàn, gày-cao một dải tỳ-bà, dìu dặt điệu then chậm buồn đặc trưng của người Tày. Một cái đẹp u nhã* ở đời. Có điều gì gợi gợi nỗi nhớ về dòng sông Huế, nơi có người ca nương cũng áo một sắc (tím), hát điệu nam: chậm, buồn, ai oán. Cái mỹ cảm đó chỉ có thể tỏ lộ khi trong đời ta có cơ may diện kiến với những dân tộc mà thẩm mỹ học đã phát triển đến những chỗ vi tế. Một dân tộc hẳn phải đã có những lúc hưng thịnh trong dòng lịch sử.

Ngay giữa khu phố cổ Đồng Văn, đối diện với khu chợ mái ngói âm dương rêu phủ thời gian, thật bất ngờ, hiện ra một quán cà phê độc đáo. Quán cà phê lập tức mời gọi bước chân tôi. Tìm hiểu thì được biết, quán cà phê này thuê lại nhà của ông Lương Mãn Tuyên, hậu duệ một gia đình giàu có, thế lực khi xưa ở khu phố Tày Đồng Văn.

Khác với nhiều người, cho rằng, quán cà phê phố cổ ngày nay (vốn là nhà của người Tày) là nhà trình tường, thực ra không phải vậy. Ngồi “hầu chuyện” cô Hùng Bích Phượng, một phụ nữ trung niên phúc hậu và trí thức người Tày (nhà cô cũng là ngôi nhà cổ gần 200 tuổi), cái hiểu của tôi mới vỡ ra nhiều điều. Bên chén rượu ngô của người Hmông trong phiên chợ chủ nhật, qua lời tâm sự, cô Phượng cho tôi biết rằng, tường quán cà phê phố cổ được xây bằng gạch non, không qua nung, làm từ đất sét trộn trấu rơm, để trâu quần thật nhuyễn, sau đó đổ khuôn, cắt thành từng viên gạch dùng để xây. Một kỹ thuật xây dựng độc đáo của người Tày, thích hợp với khí hậu khắc nghiệt miền núi. Nhìn ngôi nhà vững chắc qua gần trăm năm tuế nguyệt, thế mới biết, cái tri thức bản địa của mới đáng vị nể làm sao.

Ngồi trong quán cà phê, ngắm phố cổ một đêm mưa, ngọn đèn vàng gợi nhớ cái vàng son chốn vùng cao trăm năm trước. Hẳn là cách đây ngót thế kỷ, khu phố này phải là kinh đô hoa lệ của các sắc người vùng cao. Cứ dự phiên chợ chủ nhật hàng tuần ở đây, xem đồng bào Hmông, Tày xuống chợ tấp nập, váy áo xập xòe trên phố với những bước chân cao, cái di truyền của những bàn chân leo núi, với men rượu cay nồng bên nồi thắng cố nghi ngút khói thì đủ biết khu chợ ngay trước mặt quán cà phê phố cổ này hẳn phải là niềm ước mơ của những con người sống nơi đỉnh núi đá tai mèo kia. Người vùng cao xuống chợ, vừa là để trao đổi buôn bán các sản vật địa phương, vừa là để gặp nhau, uống một chén rượu sẻ chia nỗi lòng, hay may mắn hơn, tìm được người chăn chiếu cả đời… Nhưng cũng có khi, chỉ là để sống cái không khí hội hè, mà hội hè là niềm hân hoan làm bay đi mọi u uẩn đời thường. Hoặc rất giản dị, ăn một chút quà chợ phiên. Nhìn người miền núi ăn quà mới thấy thương nhiều lắm… Những người anh em Việt Nam ơi! Không kể già, trẻ, trai, gái… trên miệng họ luôn nhóp nhép một cây kem đá. Nghĩa là, với chút nước đường pha phẩm màu, để cho đông lạnh, thế là có cây kem niềm vui của người vùng cao. Đấy là quà mà chợ phiên mang lại. Món quà phổ thông rẻ tiền ấy là cái thích khoái của sắc dân miền núi ngày chợ phiên. Thế mới biết đời sống đồng bào còn nghèo lắm. Cây kem đá nhắc nhớ về quê nhà tỉnh Thanh tôi hơn 20 năm về trước, hồi ấy, cứ đi học về là lũ trẻ ranh chúng tôi vẫn mua kem đá ăn. Hai mươi năm đã trôi qua, phiêu bạt đã nhiều, nay được gặp lại cây kem tuổi thơ thần tiên trên môi em nhỏ người Hmông… Cảm ơn em thật nhiều!

Thế nhưng, còn một điều ấn tượng đặc biệt khi nói về cảnh đi chợ phiên của người miền núi, đó là cảnh người Hmông xuống chợ. Dân tộc Hmông có thói quen cư trú ở những nơi cao nhất, hẳn là vì chậm chân khi di cư vào Việt Nam nên phải lên ở những chỗ mà đá tai mèo bất cứ khi nào cũng có thể cứa đứt bàn chân. Người Hmông đi chợ phiên, từ tối trời đã bắt đầu, mỗi người tay cầm một ngọn đèn, từ từ di chuyển trên núi xuống chợ (vốn nằm nơi các thung lũng vùng cao). Hồi còn ở Mèo Vạc, buổi đêm tôi thức giấc, nhìn ra ngoài núi, thấy các đốm sáng cứ lừ lừ di chuyển xuống, có khi là cả một đám lớn lửa sáng cùng trôi dần đều. Tôi sợ lắm! Mới đầu, tưởng mình hoa mắt, sau đó là sợ: hay là ma mị gì đây?! Cái thâm u của núi rừng khiến cho cái sợ vì thế càng lên ngôi. Hoảng lên, chạy hỏi người nhà, họ cười mà bảo: ấy là người Hmông thắp đèn đi chợ phiên ấy. Thế mới biết, đời người trăm sự khổ toàn là vì tâm viên ý mã. Cái sợ qua đi, tĩnh lặng lại chút thời gian ngắm cảnh người Hmông xuống núi chợ phiên buổi tinh sương, thì mới thấy thật ngoạn mục. Những đốm sáng biết di chuyển như những con chim lửa nhỏ nhoi, lúc lắc bay lừ lừ dọc theo các vách núi mù sương.

Nhiều lúc tôi thường hỏi, nếu không có những con người vùng cao kia cư trú thì thiên nhiên già cỗi Hà Giang vơi đi nửa cái đẹp. Chính những sắc người vùng cao, chủ nhân lâu đời của cao nguyên đá Đồng Văn (được Unesco công nhận là công viên địa chất toàn cầu) đã tạo nên những cảnh sắc tuyệt đẹp nơi đây. Những nương ngô bạt ngàn, là kết quả của quá trình hàng thế kỷ gánh đất đổ vào hốc đá tai mèo để tạo nương rẫy, quả thật không thể không làm ta khâm phục. Ai đã theo chân người Hmông lang thang trên các dãy núi đá thì hiểu, đó là những nghệ sỹ đi lại phăng phăng trên những địa hình vô cùng hiểm trở của núi đá và dẻo dai một cách đặc biệt. Đôi cặp giò của tôi đã mỏi rã gối bao lần khi theo chân các anh chị em miền núi. Trong khi tôi người không nhẹ gánh thì các bà các chị còn địu một gùi ngô hay củi có khi cao quá mấy lần đầu mà vẫn phăng phăng nhịp bước…

Hồi còn ở nhà đọc sách, thấy Barton cho rằng những khu ruộng bậc thang của người Ifugao (Philippines) phải xứng đáng được xếp thứ hạng cao trong số những kỳ quan thế giới. Nhà dân tộc học lừng danh G.Condominas cũng rất tán đồng với ý kiến của Barton. (Thật buồn khi Condo yêu quý đã qua đời ngày 17/7/2011 vừa qua. Cánh chim đại bàng của dân tộc học Tây Nguyên đã mỏi mệt với thế giới này). Tôi lập tức giơ hai tay tán thành với Barton (và cũng là Condo) mỗi khi chiêm ngắm các khu ruộng bậc thang của người miền núi Việt Nam. Nhớ lại lời Condo, phải hiểu sự vất vả và cái tài khéo như thế nào của việc khai khẩn ruộng bậc thang thì mới hiểu hết giá trị cao quý của nó. Hơn thế, từ trong khốn khó tìm kiếm cái ăn, con người đã vẫn có thể tạo ra những bức tranh lãng mạn và kỳ vỹ vô cùng của thiên nhiên. Thật đáng khâm phục! Những khu ruộng bậc thang như là những tầng bậc dẫn mãi lên các cổng trời xinh đẹp.

Vọng nhìn từ quán cà phê phố cổ ra các khu ruộng bậc thang dọc sườn núi Đồng Văn, vẫn thấp thoáng váy áo người phụ nữ Hmông - Những con chim công trên đỉnh đá sắc. Thay vì gọi một ly cà phê, tôi gọi một ấm trà Shan tuyết để lả lơi hồn mình vào trong cái tinh hoa của thổ ngơi, tinh chất của vùng cao bắc Việt. Dẫu không thơm bằng các loại danh trà tàu, nhưng cái hùng vị đậm đà của trà Việt nơi miền núi cao ắt hẳn phải đủ sức lưu vị hơn hẳn cái làn lạt trà tàu.

M.T
(SDB 6-12)


----------------
* U nhã - chữ một người bạn tôi nhằm biểu đạt cái xúc cảm thẩm mỹ của ca Huế trong một lần có duyên được nghe cô Minh Mẫn và cô Thanh Hương ca ở nhà riêng thầy Bửu Ý.








 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN QUANG HÀ Kỷ niệm 20 năm thành lập đặc khu Côn Đảo (8.1991 - 8.2011) Thế hệ chúng tôi, thời tuổi trẻ, ai mà chẳng thuộc bài hát ca ngợi chị Võ Thị Sáu: “Mùa hoa Lêkima nở, ở quê ta miền Đất Đỏ, thôn xóm vẫn nhắc tên người anh hùng đã chết cho đời sau...”.

  • NGÔ VĂN MINH Bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ là công việc quan trọng nhất của mỗi quốc gia. Triều Nguyễn sau khi đã mở mang, hợp nhất địa giới hành chính trong toàn lãnh thổ đã có những quy định về việc bảo vệ chủ quyền, tránh các thế lực bên ngoài dòm ngó, trong đó đặc biệt chú trọng đến việc bảo vệ chủ quyền đường biên giới và đường biển.

  • LÊ THỊ BÍCH HỒNG Ghi chép Đến hẹn lại lên cứ đến ngày 27/3 (âm lịch) hàng năm, mảnh đất Mèo Vạc - nơi “phên dậu” của Tổ quốc lại rạo rực không khí đón Lễ hội chợ tình Khâu Vai - phiên chợ tình nổi tiếng có một không hai ở nước ta, thậm chí còn độc đáo và hiếm có trên thế giới, mà từ lâu đã trở thành huyền thoại.

  • NGUYỄN MINH CHÂU Trong đời viết văn của tôi, các tác phẩm chính về truyện ngắn và tiểu thuyết đều viết về vùng đất Bình Trị Thiên.

  • NGUYỄN HOÀNG YẾNChiếc xe khách chạy chậm dần. Âm giọng đặt sệt miền Nam của gã phụ xe chợt vang lên “Đến ngã ba MaDaGui rồi… có ai xuống không” Kiểu nói oang oang của gã kèm với tiếng thắng xe rít nhè nhẹ đánh thức tôi ra khỏi vùng ký ức mơ hồ vừa nồng nàn ấm áp vừa gian khổ chua cay.

  • XUÂN ĐỨCLàng tôi cách thị trấn Hồ Xá không xa, người lớn đi bộ gần một giờ, còn trẻ con thì đủ sức níu lấy gióng mẹ mà chạy lon ton từ nhà lên chợ huyện.

  • KÊ SỬUGiá trị văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử - văn hóa, khoa học, thẩm mỹ được lưu truyền bằng miệng, truyền nghề trình diễn và các hình thức lưu giữ khác.

  • NGÔ THIÊN THUPhước Yên một thời là thủ phủ của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, con thứ sáu của Nguyễn Hoàng. Sau khi lên ngôi chúa ông cải tổ lại mọi công việc và được dân gọi là chúa Sãi. Sau khi Nguyễn Hoàng mất vào năm 1613, theo lời di huấn, ông ra sức củng cố sức mạnh cho mình bằng cách hoàn thiện bộ máy hành chính và quân sự... Năm 1626 ông dời phủ từ Dinh Cát vào đất Phước Yên để lập phủ mới. Mục đích chính cho việc chuyển phủ vào đây là để chuẩn bị thực lực chống quân Trịnh lâu dài.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾDo xê dịch ngẫu nhiên của số phận, tuổi thơ tôi lớn lên ở mường Cự Thắng, châu Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

  • VI THÙY LINHÔ tô xanh chạy triền đê thở cùng những đợt hôn ngạt thở. Không phải Hollywood mà hơn cả Hollywood, khi mỗi nhịp vô - lăng là một scène cuồng say nơi miền không chạm đất nơi miền không lên trời. Sông Thao đang chảy trong tình yêu của tôi.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌC(Kỷ niệm 60 năm thành lập Hội Liên Hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế)Dọc một thời trai trẻ của những năm chín mươi, khi ấy đất nước bắt đầu đổi mới, tôi đi gần như khắp các làng quê xứ Huế từ biển khơi, đầm phá đến thẳm sâu rừng núi đại ngàn.

  • KÊ SỬU1. Đặc điểm đời sống của dân tộc Ta ôi

  • HIỀN QUANGCâu chuyện của tôi về vùng núi ven đường số 9, ngay trên thung lũng Khe Sanh lịch sử này chỉ xoay quanh con cá và cây cà phê trong hướng đi lên của hợp tác xã Tân Độ.

  • NGUYỄN VĂN VINHCuối năm 1953, Pháp thực hiện kế hoạch Na-Va, chúng tổ chức nhiều cuộc càn quét có quy mô đánh sâu vào vùng hậu cứ nước ta. Quân dân ta đánh trả quyết liệt. Pháp thua to, dẫn đến ngày 7 tháng 5 năm 1954, toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, vị trí chiến lược quan trọng vào bậc nhất của giặc Pháp bị tiêu diệt.

  • HÀ LẬP NHÂNLần đầu tiên người Việt phát hiện ra những điều sâu kín nhất trong chính tâm hồn mình. Đó là tích truyện An Dương Vương quay lại chém chết con gái Mỵ Châu yêu quí của Người sau khi kinh đô Cổ Loa thất thủ. Vì vậy cho dù bản thân An Dương Vương không phải là một nhà tư tưởng, nhưng tích truyện về ông thì lại có một tầm tư tưởng thật sâu sắc.

  • NGUYỄN HỮU SƠN1. Trong trường kỳ lịch sử Việt Nam, danh nhân thiền sư Từ Đạo Hạnh (?- 1117) là một trong những hiện tượng văn hóa chứa đựng nhiều điều nghịch lý:

  • PHONG LÊTrên các chuyến tàu xuyên Việt, từ Hà Nội vào thành phố Hồ Chí Minh tôi thường xiết bao bồi hồi khi qua mảnh đất miền Trung quê tôi - xứ nghèo Nghệ Tĩnh, khô khát nắng hạn và gió Lào.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊGọi là “một ngày”, nhưng có nhiều cách tính. Thông thường, đó là quãng thời gian từ sáng đến tối; với các công chức thì chỉ gọn trong “8 giờ vàng ngọc”.

  • TRẦN HOÀI... Chiều nay ra đứng trông về, bên ven bờ Hiền Lương mây lặng lờ trôi... Phải, đến bây giờ, sau hơn 40 năm kể từ ngày nhạc sỹ Hoàng Hiệp ôm cây đàn mãng- đô- lin hát bài hát đầu tay của mình mới sáng tác "Câu hò bên bến Hiền Lương" nổi tiếng, mây vẫn lặng lờ trôi.

  • NGUYỄN HỮU NHÀN                     Ghi chép Ngày nay đồng bào cả nước nô nức về Phú Thọ để tưởng niệm Vua Hùng. Theo sử sách cổ của Trung Hoa thì ông Vua Hùng chính là người Lạc Việt có nhiều pháp thuật, quyền năng phục được các bộ lạc, làm thủ lĩnh mà xưng là Hùng Vương (1).