Từ ngày Thất thủ Kinh đô...

08:44 10/07/2015

KỶ NIỆM 130 CHÍNH BIẾN THẤT THỦ KINH ĐÔ (23/5 ẤT DẬU 1885 - 23/5 ẤT MÙI 2015)

LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

Huế, trong lịch sử từng là vùng đất đóng vai trò một trung tâm chính trị - văn hóa, từng gánh chịu nhiều vết thương của nạn binh đao. Chính biến Thất thủ Kinh đô 23/5, vết thương lịch sử ấy ăn sâu vào tâm thức bao thế hệ người dân Cố đô.

Ảnh: Lê Vũ Trường Giang

Nhiều năm sau, biến cố kinh hoàng đó vẫn được nhắc lại, truyền tụng, lan tỏa trong dân gian, trong các tác phẩm văn học giàu lòng trắc ẩn. Vè Thất thủ Kinh đô - sản phẩm truyền miệng đến nay, tồn tại dưới nhiều dị bản nhưng thống nhất ở thái độ kháng Pháp của quan quân nhà Nguyễn và nỗi đau thương của dân chúng. Nhà nghiên cứu Huế Võ Hương An trong bài viết Mấy lần thất thủ kinh đô (2005) đã nhớ đến ngày Thất thủ Kinh đô qua bài vè được một người phụ nữ nghèo khổ tên là mụ Mì ngày ngày lang thang khắp chốn kinh thành để kiếm vài xu sống qua ngày, kể lại: “Mệ ngoại tôi và mạ tôi thuộc lòng nhiều đoạn của bài vè, vậy mà mỗi lần nghe mụ Mì gõ cặp sanh cầm nhịp và cất tiếng khàn khàn kể chuyện kinh đô khói lửa, vẫn không cầm được nước mắt”.

Vè Thất thủ Kinh đô miêu tả cuộc tấn công của quân Pháp:    

“Súng Tây nó nổ đì đùng
Hai bên phường điếm hãi hùng kêu la
Người chui bụi, kẻ vọt ao
Người lòn xuống cống, lao xao canh chầy”


Dân chúng khiếp đảm trước hỏa lực của giặc, tìm đường thoát thân để khỏi dính nạn binh đao. Bài vè dùng nhiều từ “chui”, “vọt”, “lòn” để diễn tả muôn cách thoát thân của dân chúng khỏi vạ vào binh đao.

Tất cả ở trong kinh thành và chỉ có thể thoát ra được bằng các cửa thành, lúc này đang bị quân Pháp dần chiếm, tình cảnh đó giống như:

“Lao xao như cá trong đìa
Tránh sao cho khỏi súng lia vào mình…”


Vào được thành, quân Pháp đốt nhà cửa, phố xá để vây khốn quân, dân ta:

Đốt từ chợ nội đốt đi
Hai bên thiên hạ vậy thì than van
Hãy còn của cải bạc vàng
Nửa thời mất mát nửa tàn ra tro


Cảnh tượng dân chúng già trẻ lớn bé hốt hoảng chạy loạn giữa khói lửa mịt mù, tên bay đạn lạc, sự sống trở nên mong manh.

“Lô nhô trẻ dìu già, ông nách cháu, chân còn đi, đầu chốc lìa vai!
Lao nhao con khóc mẹ, vợ kêu chồng, tiếng chưa ngớt, xương đà chất đống!
Oan uổng quá mấy ông trên võng, thình lình sét đánh, sống chẳng trọn đời.
Tội tình thay lũ bé trong nôi, cắc cớ sao sa, chết đà trắng bụng.”

             (Văn tế cô hồn ngày 23/5 ở kinh thành Huế của cụ Phan Bội Châu).

Quân Pháp đã gây ra tội ác tày trời, tàn sát nhiều dân lành trong cuộc chiến. Cụ Phan đã nói đến những cái chết đầy tai ương: “đầu chốc lìa vai”, “xương đà chất đống”, “sống chẳng trọn đời”, “chết đà trắng bụng”... Bất kể, già hay bé, quan hay dân đều chết thê thảm. Sau này, khi đào mộ cải táng những nạn nhân trong cuộc thảm sát để mang lên Ba Đồn, người ta thấy có mũ mão, bài ngà của quan lại, và cả xác ngựa chết nạn. Cụ Phan tế rằng: “Thương mấy cụ khiên sơn nón dấy, nặng nợ cơm vua áo chúa, được da ngựa bọc thây mới sướng, trách vì sao tử bất thành danh”. Cái sự “tử bất thành danh” ấy âu cũng là số phận chung của hàng ngàn người chết nạn trong ngày Thất thủ Kinh đô.

Có thể nhắc đến tác phẩm Huế 1885 của nhà văn Thái Vũ, tường thuật lại cảnh tang thương của Huế vào ngày ấy. Trước hết là cuộc bắn giết không thương tiếc: “Chúng bắn xối xả, bắn vào những người đang chạy về phía chúng, quần nhau với chúng. Bắn vào những người đang chạy tỏa khắp nơi. Bắn vào đám đàn bà con trẻ đang hoảng hốt kêu khóc. Bắn vào những người đã chết. Nhà cháy. Cây cối sụp đổ…(Trang 318). Cuộc thảm sát đã dẫn đến hậu quả: “Xác người chết rải khắp đường khắp ngõ. Xác gục bên hồ, ngổn ngang bên bãi cỏ. Hầu như không nhà nào không có người chết. Cả Thành Nội đúng là một chiến địa… (Trang 328 & 335)”.

*

Từ ngày Thất thủ Kinh đô,
Bốn phương xiêu vẹo Hán Hồ khổ thay…


Người dân Huế đã tổ chức lễ tế Âm hồn, cô hồn, tưởng niệm chiến sĩ trận vong và đồng bào nạn vong trong chính biến Thất thủ Kinh đô. Trong cuộc phản công phủ đầu quân đội Pháp tại kinh thành Huế, quan quân nhà Nguyễn dưới sự lãnh đạo của phe chủ chiến, đứng đầu là Tôn Thất Thuyết, đã chiến đấu rất ngoan cường, gây nhiều thiệt hại cho quân Pháp. Khi địch quân tràn vào thành, các đội quân Đoàn Kiệt, Phấn Nghĩa, lực lượng cấm quân, hộ thành đã ra sức chống trả, bảo vệ triều đình và dân chúng. Sự thua thiệt về vũ khí và chiến thuật đã khiến các đội binh hy sinh rất nhiều. Nhiều tấm gương tướng sĩ nhà Nguyễn chiến đấu dũng cảm, cầm chân quân xâm lược ở các cửa thành; nhiều người bỏ mạng để đoàn xa giá xuất cung được an toàn ra Quảng Trị. Dân chúng nửa đêm nghe hỏa pháo nổ tứ tung, khói lửa ngập trời, hết thảy đều khiếp sợ dìu dắt nhau chạy loạn, dẫn đến kết cục đau thương cho hàng ngàn người.

Việc lập đàn tế các âm hồn tử nạn trong biến cố này là một nét văn hóa đặc trưng của người Huế. Lễ vật cúng ngày Thất thủ kinh đô bày biện tùy vào hoàn cảnh của từng gia đình, làng xóm nhưng tối thiểu phải có những lễ vật như hoa quả, cau trầu rượu chè, cháo thánh, cơm nắm, khoai, sắn, ngô, gạo muối, nhang trầm, hột nổ, áo binh, giấy tiền vàng bạc. Đặc biệt trong lễ cúng này, từ gia đình cho đến tập thể, phải nhớ có một thau lớn nước hoặc một thùng nước chè đầy và đốt một đống lửa đốt bên cạnh bàn thờ cúng. Người cúng tin rằng các âm hồn sẽ đến uống nước và sưởi ấm, vì nhiều người trong biến cố đã chết khát, chết thiêu và chết đuối lạnh lẽo dưới sông, hồ trong kinh thành.

Bài Văn tế Âm hồn Thất thủ kinh đô (23/5, Ất Dậu) của nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Vĩnh Ba, có đoạn về các lễ vật rất cụ thể như sau:

“Bát cháo thánh hầu ấm thân cô độc, trên đường xa mù mịt bốn phương,
Tấm áo binh đỡ lạnh gót lạc loài, giữa lối thẳm âm u chín suối.
Nước chè nhạt cũng tình quyến luyến, khát vơi dần miệng kẻ thác oan,
Củ khoai cằn ấy nghĩa thân quen, no đôi chút bụng người chết mới.
Bông chuối cau trầu đủ thứ, lỡ khi cùng không thiếu vật tùy thân, Giấy tiền vàng bạc sót chi, gặp lúc ngặt có thừa đồ trao đổi.
Tội sớm tha, công thưởng lớn, nguyện cầu vía yên hàn vượt thoát, đêm âm ty ám ám lưới sương giăng,
Oan thì giải, nghiệp trả dần, cầu khấn hồn thanh thản ra đi, chiều dương thế mù mù luồng khói nổi.
Đốt nén nhang ngan ngát, mặc ngậm ngùi xin chớ ngó lui, Vẫy chén rượu thơm tho, dù ấm ức hãy mau bước tới.
Tâm thành lễ bạc, bàn phẩm vật trên dưới sơ sài,
Ngôn thiểu ý đa, câu ai điếu ngắn dài vụng dại”.


Trên bước đường tha phương, những âm hồn không nơi nương tựa được dân chúng dâng cúng lễ vật, với tấm lòng thành chia ngọt sẻ bùi, chua xót trước cơn can qua. Lễ vật giản dị, mang nhiều ý nghĩa tâm linh. Bát cháo thánh: “ấm thân cô độc”, tấm áo binh: “đỡ lạnh gót lạc loài”, nước chè nhạt: “khát vơi dần miệng kẻ thác oan”, củ khoai: “no đôi chút bụng”… Tất cả mang lại sự gần gũi, tình thương của người sống cho những âm hồn thác oan nơi chín suối. Cụ Phan Bội Châu trong Văn tế cô hồn ngày 23/5 ở kinh thành Huế cũng nói lên tinh thần đó:

“Sơ khác gì thân
Này hương, hoa, vàng, giấy, xôi, rượu
Gọi chút rằng:
Xin nếm lấy hơi
Xin nếm lấy lòng
Nghĩa đồng chủng đồng bào Thác xem như sống
Hỡi sinh linh các đấng Phù trợ cho Tổ quốc trường tồn. Ai tai, thượng hưởng!”


Người cúng quan niệm: “Sơ khác gì thân”, đây tấm lòng thành kính, biết ơn người dân Huế đối với các chiến sĩ bỏ thân vì Tổ quốc, xót thương đến đồng bào nạn vong trong chính biến Thất thủ Kinh đô, là “nghĩa đồng chủng đồng bào”. Tất cả dành lễ vật một lòng hướng đến vong hồn được thượng hưởng, bù đắp những mất mát tai ương và dành tất cả lời nguyện cầu siêu thoát.

Thế nên từ những tư gia trong nội thành cho đến những vùng quê xa xôi như Hương Trà, Phong Điền, Phú Lộc... đều có mâm cúng ngày 23/5. Mỗi xóm, mỗi khu phố cũng có lễ cúng chung, từ ngày xưa nhiều xóm, làng ngoại thành và nội thành của Huế còn lập miếu Âm hồn, tiêu biểu như miếu Âm hồn ở ngã tư Mai Thúc Loan - Lê Thánh Tông còn tồn tại cho đến ngày nay. Nhiều địa phương còn hình thành những tập thể gọi là “Phổ Hăm ba tháng Năm”, hàng năm đóng góp tiên bạc để tổ chức lễ cúng cô hồn một cách trọng thể. Hình thức “phổ” này không đâu trên đất nước Việt Nam tồn tại được như Huế, chỉ để dành cho việc làm lễ kỵ tập thể rất long trọng, thành kính. Từ mồng Mười cho đến hết tháng 5, khắp Huế đâu đâu cũng có những bàn lễ bày biện, nhang khói xông thơm, vàng mã cúng đốt âm hồn.

Ngoài tư gia, xóm làng, triều đình cũng tham gia vào việc tưởng niệm các nạn nhân thất thủ. 9 năm sau biến cố, vua Thành Thái, một vị vua có tinh thần yêu nước và kháng Pháp, triều đình Huế mới chính thức lập Đàn Âm Hồn vào năm 1894, tọa lạc tại phường Huệ An gần cửa Nhà Đồ để tế lễ hằng năm. Việc tế lễ do Ty Lý Thiện phụ trách và quan Đề đốc Hộ thành đứng làm chủ lễ. Từ đó, lễ cúng âm hồn được nâng lên gọi là lễ tế Âm hồn Thất thủ Kinh đô, bữa quảy cơm chung hay còn gọi là Lễ Truy niệm Chiến sĩ trận vong và đồng bào nạn vong năm Ất Dậu. Nhiều tư gia sau khi cúng có hình thức phóng sinh các loài chim, cá... để hồi hướng cho các nạn nhân xấu số. Một số làng xóm còn mời sư về làm đàn chẩn tế, trì tụng trang nghiêm.

Đàn Âm Hồn nay đã được quy hoạch, khoanh vùng và được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Ngày xưa, sau kỳ lễ tế, vào ngày 12 tháng 6 âm lịch có tục đi chạp mộ tập thể những người tử nạn trong ngày Thất thủ Kinh đô ở cồn mồ Ba Đồn. Đến nay, gần như tục đi chạp này không còn duy trì thường xuyên nữa.

Thất thủ Kinh đô năm 1885 là một minh chứng rõ nhất về đau thương, mất mát của Huế, minh chứng cho số phận một kinh đô trong lịch sử. Không đâu trên đất nước Việt Nam có ngày cúng 23/5, để nhang khói phủ khắp kinh thành. Huế cổ kính mà u buồn vì những kí ức khó thể xóa nhòa. Xin mượn câu văn tế của nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Vĩnh Ba để thắp nén tâm hương trước những vong linh của đại nạn đã qua 130 năm của Huế:

“Hơn thế kỷ trôi qua trước mắt, anh linh thiên cổ còn đây,
Mấy bi thương chất kín trong lòng, hương hỏa tứ thời ngát mãi”.


T.G  
(SH317/07-15)


 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Tuy chỉ là món ăn dân dã và phổ biến ở Huế, nhưng để chế biến được một tô bánh canh cá tràu ngon đúng vị… món ăn này cũng đòi hỏi người chế biến phải tỉ mẩn và khéo léo. Ở Huế, bánh canh có nhiều cách chế biến khác nhau, như bánh canh nấu tôm, chả cua, bò viên, da heo... Tuy nhiên, đặc sắc và thu hút nhất vẫn là bánh canh cá tràu (người Bắc gọi là cá quả, miền Nam gọi đó là cá lóc).

  • Huế những ngày này mưa dài lê thê. Từ sáng đến tối hầu như mưa không lúc nào ngớt. Đi kèm mưa là cái lạnh rét luồn vào da thịt, làm tím tái những khuôn mặt, bàn tay, đôi chân trần đang tất tả mưu sinh trên đường phố.

  • BẠCH LÊ QUANG

    Nghệ thuật và âm nhạc nói riêng, khi vượt qua lằn ranh của hữu hạn sẽ trở thành những sấm truyền vĩnh hằng, một thứ Kinh mà con người sẽ truyền rao trong cõi nhân sinh đầy biến động.

  • HỒ THỊ HỒNG

    Vua Thiệu Trị từng nói với bề tôi rằng: “Việc dạy học là chính sự trọng đại của triều đình”(1). Nhưng với truyền thống hiếu học của nhân dân ta, từ lâu vấn đề giáo dục đã được xã hội hóa một cách sâu rộng từ trong từng gia đình, dòng họ và toàn xã hội Việt Nam.

  • (SHO). “Đã mê ớt đỏ cay nồng
    Tìm trong vị hến một dòng Hương xanh
    Ruốc thơm, cơm nguội, rau lành
          Mời nhau buổi sáng chân thành món quê”

  • PHẠM THỊ PHƯƠNG THẢO

    Trong chuyến đi Huế dự lễ kỷ niệm ba mươi năm Tạp Chí Sông Hương vừa rồi, tôi được Tổng Biên Tập Hồ Đăng Thanh Ngọc ghé tai thông báo: “Chị cứ đi chơi Sông Hương và thăm quan quanh cố đô Huế những chỗ chưa biết, nhưng đừng nên khám phá hết để còn có cái thôi thúc mình lần sau vô  Huế mà khám phá tiếp  nữa. Nhưng dù đi đâu các anh chị cũng đừng quên đến thăm Gác Trịnh mới khánh thành nhé, hay lắm đấy, dù bận mấy  cũng nên tranh thủ ghé thăm Gác Trịnh dù là vài phút ”.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌC

    Buổi sáng, tôi ngồi trong Gác Trịnh nhìn ra ngoài cửa sổ. Bên ngoài trời đang se sắt chuẩn bị mưa, sự se sắt nằng nặng.

  • PHẠM HUY THÔNG

    Đầu năm 1986, nghĩ rằng năm nay là một năm có nhiều sự kiện trọng đại diễn ra trong nước ngoài nước, tôi e rằng kỷ niệm mùa hè 200 năm trước của Phú Xuân và của dân tộc, dù không phải là không có tầm vóc, có thể chỉ được chú ý có mức độ, - nếu có được nhắc đến.

  • LÊ HUY ĐOÀN

    Những cửa thành của Kinh thành Huế ghi dấu những sự kiện từ kinh đô thất thủ ngày (23/5 năm Ất Dậu, 1885) sau cuộc chiến không cân sức giữa phe chủ chiến của triều đình Huế với giặc Pháp rồi đến sự tàn phá của thiên tai qua trận lụt 1953 làm 4 cửa thành đổ sập, rồi lại trải mình qua chiến sự Tết Mậu Thân (1968) với bao nhiêu vết hằn của bom đạn.

  • VÕ NGỌC LAN

    Như một mặc định của thời gian khi Huế là kinh đô của cả nước và nơi đây cũng là kinh đô của những chiếc áo dài. Vì vậy con gái Huế được làm quen với tà áo dài rất sớm. Bởi khi mới sinh ra đã thấy mẹ, thấy bà, thấy những người phụ nữ chung quanh khoác trên mình chiếc áo dài.

  • LÊ PHƯƠNG LIÊN 

    …Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
    Những buổi ngày xưa vọng nói về…

                       (Đất nước - Nguyễn Đình Thi)

  • G.S. TRẦN QUỐC VƯỢNG

    Thế kỷ XVI chứng kiến sự vỡ ra của nền quân chủ quan liêu Nho giáo Việt Nam.

  • THANH TÙNG

    Tháng 10/2012, tại khách sạn Rex - thành phố Hồ Chí Minh, chiếc bánh đậu xanh Phượng hoàng vũ khổng lồ của nghệ nhân ẩm thực Tôn Nữ Thị Hà và ái nữ Phan Tôn Tịnh Hải được vinh danh Kỷ lục châu Á - do Hội Kỷ lục châu Á công nhận.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN

    Ở Huế có nhiều món ngon nổi tiếng như bún bò, cơm hến, dấm nuốt, bánh khoái, bèo, nậm, lọc… điều này đã được nói nhiều. Nhưng còn nhiều chuyện có thể bạn không để ý lắm.

  • NGUYỄN HUY KHUYẾN

    Vườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Khu vườn này đã được đi vào thơ ca của các vua nhà Nguyễn như là một đề tài không thể thiếu.

  • VÕ NGỌC LAN 

    Đã từ lâu danh xưng mai Huế như một mặc định cho loài hoa mai có năm cánh với sắc vàng rực rỡ. Loài hoa mai ấy chỉ sinh trưởng trên đất Cố đô và cũng là đặc sản của vùng sông Hương núi Ngự.

  • LÊ VĂN LÂN

    Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968 với việc chiếm giữ Huế 26 ngày đêm đã tạo nên bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, làm sụp đổ chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ - Ngụy, làm lung lay ý chí xâm lược của kẻ thù, buộc địch phải ngồi vào bàn đàm phán Paris.

  • NGUYỄN HỒNG TRÂN

    Câu chuyện này do nhà thơ Bích Hoàng (tức Hoàng Thị Bích Dư - cựu nữ sinh trườngĐồng Khánh - Huế) kể lại cho tôi nghe trực tiếp vào đầu năm 2012 tại nhà riêng của cô ở 170 phố Cầu Giấy, Hà Nội.

  • TRẦN BẠCH ĐẰNG

    Mỗi địa danh của đất nước ta chứa mãnh lực riêng rung động lòng người, từ những khía cạnh rất khác nhau. Có lẽ lịch sử và thiên nhiên vốn ghét bệnh "cào bằng", bệnh "tôn ti đẳng cấp" cho nên lưu dấu vết không theo một công thức nào cả. Quy luật khách quan ấy làm phong phú thêm đời sống nội tâm của dân tộc ta.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN

    Đề cập đến sự nghiệp cầm bút của Thượng Chi Phạm Quỳnh cần phải có một cái viện nghiên cứu làm việc trong nhiều năm mới hiểu hết được. Do hoàn cảnh lịch sử, tôi chưa bao giờ dám nghĩ đến mình có thể tìm hiểu một khía cạnh nào đó trong sự nghiệp to lớn của ông.