LIỄU TRẦN
Lưu lạc đến tay một tập viết nhỏ “Thiền sư ở đâu”, tác giả Bùi Long. Chợt nghĩ, thời này là thời nào còn viết kiểu này.
Nào thầy Nhất Hạnh, nào thầy Thanh Từ, nào Trúc Lâm nào Yên Tử, từ Nhật Bản, từ Trung Hoa, từ Tây Tạng, thiếu gì. Thời này là thời “phát” của tâm linh mà. Chùa đình miếu mạo mọc như nấm sau mưa. Đầu năm cuối tháng chuông mõ như sấm rền.
Thế rồi đọc, thấy mấy bài viết về các nhân vật cũng không có gì gây ấn tượng với tôi, dù cũng có nhiều cảm tình. Đọc xong cũng gần như quên luôn.
Nhưng, hóa ra, một tuần sau tôi vẫn không thể quên. Tôi khá thảng thốt khi câu hỏi “Thiền sư ở đâu?,” cứ váng vất trong đầu.
Tác giả viết rất nhẹ, hoặc nói thẳng ra là nhẹ “đô”. Đã quen với chữ nghĩa hiểm hóc, với thông tin ngập ứa, dường như cuốn này chẳng ép phê gì. Những nhân vật trong sách cũng khá thú vị, nhưng tôi đã gặp số người đủ dùng cho cả mấy kiếp, tôi chẳng tham gặp thêm, hơn nữa tôi cũng e sợ đâu phải tìm gặp là tôi bắt gặp họ giống như tác giả đã bắt gặp. Thực ra, mình cũng mong manh quá, sợ thất vọng.
Nhưng quả đúng là cơ duyên khi lúc tôi được đọc tập sách nhỏ này. Cảm xúc, chính cảm xúc trăn trở đi tìm của người viết đã gây xao động trong tôi. Một thời đại, một trạng huống xã hội thế này, mà anh còn câu hỏi đó. Ôi mạch nguồn của đức Gottama vẫn còn đây, dù hệ lụy của thế cuộc làm diện mạo con đường của Ngài quá nhiều biến hoặc.
Làm sao diễn tả được nỗi xao xuyến khi tôi nhận ra, đã nhiều năm nay, khi tôi tưởng tôi đang dũng mãnh đi vào những chủ đề lớn của xã hội, những sự kiện thời cuộc với tâm thế “đạo khả đạo phi thường đạo”, đã thả mình bơi vào những dòng thời sự với sự tự tin kiêu mạn rằng mình đang giữ “tâm bình thường”, một “đạo vô ngôn”. “Thiền sư ở đâu” hay “Sự thật ở đâu”, tôi nghĩ đó là câu hỏi vốn có từ lâu của mình, không thể nào mất được, còn đây, còn đây trong mọi nẻo đường đời. Ấy vậy, chỉ là tưởng mà thôi. Sự thôi thúc trăn trở về Đạo, về thiền, về giác ngộ đã từng là trường lực bảo bọc tôi, nhưng, chỉ cần thiếu huân tập, chỉ cần đặt sự thôi thúc ấy xuống một lát, tâm ta đã sẵn sàng trượt vào biển mơ. Qua nhiều năm tháng, dữ kiện cuộc sống nhiều lên, thì mỗi ngày một tí, câu hỏi kia cứ mờ dần mờ dần rồi chỉ còn là chiếc bóng bị bản ngã đè ép, vẽ vời, khiến ta lầm tưởng là ta vẫn đeo đuổi đường đạo, mà thực ra đã lạc khỏi từ lâu. Những tháng ngày bộn bề dự án, deadline, tiệc tùng, tình ái… thời gian đầu, tâm tôi còn luôn được quán sát, điều chỉnh, nhưng rồi sự phai nhạt tự đến, những cơn mộng tự kiến tạo mà tôi không hề hay biết, vẫn nghĩ mình đủ sức dụng pháp “đối cảnh vô tâm”. Than ôi!
Đang giữa mùa xuân, tôi ngậm ngùi nhìn lại mình, đã thấy trong mình những thất vọng đớn đau, những vết thương chữa trị bằng trốn chạy, những cao ngạo nhếch cười khi nhìn người lễ Phật, những lười biếng xa rời kinh kệ, thiền định. Tôi giờ đây biết rõ mình ảo vọng khi cho rằng mình đã đủ sáng để đi trong đêm. Tôi có ngờ đâu trí trăm năm kinh sử cũng vẫn chỉ là trí thế gian. Có hàng đệ tử xuất sơn hành đạo, cũng có hạng phải rời núi vì chẳng đủ trí. Hạng kia có đủ liêm sỉ để thừa nhận với đời dưới kia điều đó?
Cảm xúc của tôi có từ tập sách này có gì giống như cảm xúc lúc người nhận ra một cành mai nhỏ vẫn nở trong đêm xuân tàn của sư Mãn Giác. Vẫn còn đây, cuộc kiếm tìm về diện mục hồn nhiên, Hồi đầu thị ngạn. Con tìm về đây, ơi quê cũ.
‘Thiền sư ở đâu” - ơn người không chỉ vì chia sẻ những trải nghiệm rất thiền, nhưng, đã thức dậy một nhành hoa muốn nở.
Tháng 3, mùa hoa gạo
L.T
(SHSDB28/03-2018)
PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.
BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.
TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.
NGUYỄN THỊ MAI(Nhân đọc tập thơ “Ra ngoài ngàn năm” của nhà thơ Trương Hương - NXB Văn học – 2008)
LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.
THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.
HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...
BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.
NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.
HỒ THẾ HÀ Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.
TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.
TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.
HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.
NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)
LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)
VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)
NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.