Truyện ngựa viết năm Ngọ mà không thấy ngựa đâu!

15:16 31/07/2008
TRUNG SƠNĐó là truyện ngắn “Ngựa người và người ngựa” của cây đại thụ trong làng văn Việt : nhà văn Nguyễn Công Hoan. Đây là một trong những truyện ngắn xuất sắc, thể hiện rõ phong cách “truyện ngắn Nguyễn Công Hoan” nên đã hai lần được lấy làm tên các tập truyện ngắn của ông. (Lần đầu, do nhà Mai Lĩnh xuất bản năm 1934 và lần thứ hai do Nhà xuất bản Văn học in năm 1988).

 Tên truyện nhắc từ “ngựa” đến hai lần, nhưng suốt truyện ngắn không hề có bóng dáng con ngựa nào! Truyện viết ngày 11-2-1931, lần xem lại “Lịch thế kỷ 20” thì đó là ngày 24 Tết năm Canh Ngọ! Có thể hình dung sau đêm tiễn Ông Táo cưỡi ngựa về chầu Trời, nhà văn nghe tiếng pháo đì đẹt ngoài đường vắng và hình dung ra câu chuyện - một cuộc “kỳ ngộ” của hai cảnh đời bất hạnh: anh phu kéo xe (ngựa người) đêm ba mươi Tết chạy gắng kiếm thêm lon gạo cho vợ con, không ngờ lại rước phải gái giang hồ (người ngựa) ế khách!
 Đêm ba mươi, có mấy ai xuất hành và có khách làng chơi nào lại đi tìm gái vào lúc thiên hạ cúng ông bà tổ tiên. Vậy mà họ vẫn phải ra đường kiếm miếng ăn! Hai kẻ nghèo cùng đường gặp nhau như là sự tất nhiên chứ chẳng phải do nhà văn sắp đặt. Chỉ khác là anh phu xe từ đầu đã hiện “nguyên hình” là một con người lam lũ, cần cù và thật thà, tuy rằng cũng biết nói thách (anh ta đòi 6 hào một giờ, nhưng khách trả 2 hào cũng phải đi); còn cô ả “ăn sương” thì vốn quen ngụy trang bằng son phấn và tỏ tình giả dối, nên thoạt đầu ra dáng một bà quý phái, sau khi lòng vòng hết phố này sang phố khác, mặc dù trong túi không một xu dính túi vẫn khéo lừa được anh phu xe: “Anh có hào lẻ không, cho tôi vay mấy hào, chốc nữa tôi giả cả đồng cho tiện.”(*) Vớ được hai hào của anh phu xe, “bà khách vào hiệu, mua gói thuốc lá, bao diêm, còn tiền mua cả hạt dưa để cắn.” Xem cách cô ả định “trả tiền” cho anh phu xe về sau thì không hẳn cô đã có ý lừa gạt; cô hy vọng sẽ gặp “khách” rồi sẽ có tiền; còn anh phu xe, dù đã biết bà khách là gái giang hồ, vẫn hy vọng càng kéo nhiều giờ, càng thu được nhiều tiền và mơ tưởng: “Sáng mai, kéo chuyến khách qua ga, xong rồi, ta đánh bát phở tái, rồi mua cho con cái bánh ga tô cho nó mừng. Vợ ta nghe thấy trong túi ta có tiền, thì chắc hớn hở, thấy ta làm lụng vất vả để kiếm tiền nuôi cả nhà, tất là thương ta lắm.”
 
Cho đến quá giờ giao thừa và khi cô ả thú thực không có tiền trả, dọa đưa lên Cẩm cô cũng không sợ; cô ta xin được gán phu la, áo, đồng hồ thay nợ thì anh nổi cáu “tôi lấy để làm ma mẹ tôi à?”; đến thế thì cô đành xuất cái “vốn tự có” ra: “Thôi thì anh kéo tôi ra chỗ kín, vắng, anh muốn bắt tôi gì, tôi xin chịu”! Anh phu xe thật thà không hiểu, buộc cô ả phải giải thích: “nghĩa là chỉ có với tôi thôi, thì người tôi đây, anh muốn làm gì, tôi cũng bằng lòng.” Cô muốn tỏ ra mình không phải là người lừa lọc, ăn quỵt, nhưng anh phu xe lại chứng tỏ mình là người có nhân cách, cương quyết khước từ cách trả nợ của cô. (Thoạt đầu, anh bảo là “cô đổ bệnh cho tôi thì tôi bỏ mẹ tôi”, nhưng khi cô khai rằng mới khám bệnh hôm qua, anh vẫn chỉ nhất mực “mời cô xuống xe cho tôi về, và xin cô tiền xe”!) Đến nước ấy thì cô chỉ có cách lừa anh, vào cửa trước một “nhà săm” hỏi vay tiền rồi chuồn ra cửa sau. Khi hiểu ra cơ sự này, “anh xe choáng người, như nghe tiếng sét đánh...nghiến răng, cau mặt lủi thủi ra hè...móc túi lấy bao diêm đốt vía...” Và lúc ấy, “Tiếng pháo chào xuân nối đuôi nhau đùng đùng, toạch toạch...”
 
Tác giả đã kết câu chuyện như thế, chẳng cần một “lời bình” nào mà vẫn làm người đọc xót xa thương cảm cho số phận lớp người nghèo cùng đường trong xã hội cũ.
 Từ mùa xuân ấy, 72 năm đã qua. Xã hội đổi thay và cảnh “ngựa người người ngựa” cũng đã khác trước; nhưng lớp “người ngựa” hình như lại đông đảo hơn, “sang trọng” hơn! Và ai dám nói chắc những con “người ngựa” đi tắc-xi, hoặc cưỡi cúp đến các “động” hầu tiếp bọn lắm tiền lại không đầy những bi kịch? Ôi! Chẳng lẽ đó lại là “bi kịch muôn đời” của nhân loại sao? Cầu mong năm Nhâm Ngọ chiến dịch “bài trừ tệ nạn xã hội” được triển khai có kết quả để những con “người ngựa” được trở lại làm NGƯỜI!
Trường An-Huê, trước thềm năm Nhâm Ngọ
N.K.P.

(nguồn: TCSH số 156 - 02 - 2002)

 


 -----------------------
 (*) Những chữ xiên trong ngoặc kép được trích từ truyện ngắn “Ngựa người người ngựa”.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • VĨNH NGUYÊNTrước mặt tôi là thăm thẳm sâu hút chập chùng xanh đến rợn người mà thích thú làm sao! Hồ Truồi trong vắt dưới chân như ta có thể rơi tòm xuống đó nếu không may để sẩy bước hụt. Và, sau lưng tôi là chót đỉnh Bạch Mã gần kề như chỉ còn một tầm tay với. Nơi đây, mang cái tên lộng lẫy: Vọng Hải Đài!

  • NGUYỄN VĂN DŨNGTôi không tin rằng một cô gái đẹp thì lúc nào cũng đẹp. Sông Hương cũng thế. Sông Hương là quà tặng ưu ái của Thượng đế dành cho kẻ phàm trần.

  • NGUYỄN HỮU THÔNGĐêm thêm như một dòng sữa.Lũ chúng em, âm thầm rủ nhau ra trước nhà.Đêm thơm, không phải từ hoa,Mà bởi lòng ta thiết tha tình yêu thái hòa.Đời vui như men sayNgọt lên cây trái..

  • NGUYỄN XUÂN TÙNGSống lạc quan yêu đời, luôn luôn làm chủ được những suy nghĩ, tình cảm và hành động để tự thắng mình trong mọi hoàn cảnh là một phẩm chất cao đẹp của Bác Hồ.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGỞ Huế hình như không có mùa thu, mùa thu chỉ ghé lại thành phố giữa một mùa nào đó, mùa hè chói chang hay mùa đông rét mướt. Vì thế, bao giờ người ta cũng đón chào mùa thu bằng nỗi vui mừng đến với một người thân đi xa mới về để lại vội vã ra đi, bằng một cái mà nhạc sĩ tiền chiến Đặng Thế Phong gọi là “Con thuyền không bến”. Trên sông Hương, hình như thường có nỗi bơ vơ chờ sẵn những tâm hồn lãng tử quen xa nhà từ vạn cổ.

  • TRẦN THÙY MAI“Khuôn mặt em đâu phải chữ điền, Trúc không che ngang mà che nghiêng”

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGCái tin anh Phương mất đột ngột đến với tôi lúc 11 giờ đêm, qua giọng rã rời nghẹn ngào của nhà thơ Lương Ngọc An báo Văn nghệ, lúc tôi đang “dùi mài kinh sử” ở khu ký túc xá trường Đại học Y Hà Nội để lấy cho xong cái bằng Thạc sỹ.

  • Hành trìnhĐã từ lâu tôi cứ muốn đi núi Tuý Vân để tìm hiểu xem sao nó được vua Thiệu Trị liệt vào hàng thứ 9 trong “Thần kinh nhị thập cảnh”.

  • Trước năm 1945, mỗi lần đi qua Ái Tử, tôi không khỏi lo sợ… Một sự lo sợ mơ hồ. Còn vì sao mà sợ thì cũng chẳng biết.

  • Ngay lần đầu tiên gặp ông đã đầy kỷ niệm. Đại đội tôi giao quân bên bờ một con suối đẹp cách sông Hương không bao xa. Anh Nguyễn Châu trưởng ban quân lực Thành đội nhận quân xong, ông đến bắt tay từng người.

  • Tôi vừa đến vùng Bắc Tây Nguyên được mấy hôm thì gặp địch càn quét. Hôm đó tôi định vào cơ quan xã Đaktô để làm việc không ngờ gặp địch dọc đường, tôi tạt vào rừng và nhắm hướng trở lại đơn vị, nhưng càng đi càng lạc sâu vào rừng thẳm.

  • Rời Bắc Hải chúng tôi bảo nhau từ giờ trở đi sẽ chỉ ở khách sạn chứ ở nhà người quen có cái vui nhưng cũng gây phiền toái cho bạn bởi chúng tôi đi chơi bất tử chẳng có giờ giấc nhất định nào.

  • Có một lão ngư kiêm lão nông suốt mấy chục năm trời vắt mồ hôi thành muối, tưới mồ hôi thành sông hồ mà mảnh vườn nhà vẫn cằn khô, chiếc thuyền nhà vẫn không tanh mùi cá biển. Quang cảnh vườn nhà cứ một mùa xanh lại ba mùa rụng lá, khô cành. Vợ chồng con cái chỉ thấy mắt chẳng thấy mồm. Xung quanh hàng xóm cũng chung hoàn cảnh.

  • Đấy là vào khoảng cuối chiến dịch Điện Biên Phủ – 1954. Đơn vị chúng tôi (đại đội 410 – đội 40 – TNXP Trung ương) được điều đi nhận nhiệm vụ mới.

  • 1. Cô bạn cùng cơ quan nghe nói tôi “có tay nuôi người”, lại quen biết giao du rộng rãi nên có ý nhờ tìm một người giúp việc nhà cho vợ chồng cô em gái.