PHẠM PHÚ PHONG
Hai thể loại giữ vai trò nòng cốt và xung kích trong văn xuôi hiện đại của nhiều nước trên thế giới là tiểu thuyết và truyện ngắn.
Ảnh: internet
Trong lịch sử hình thành và phát triển của văn xuôi hước ta, hai thể loại này được khẳng định cùng với sự ra đời của văn chương quốc ngữ và có ý nghĩa lịch sử riêng, vấn đề lịch sử hình thành khái niệm và đặc trưng thể loại là một vấn đề đã cũ, nhưng cần xác định lại như một nhu cầu "ôn cố tri tân", trở lại khởi điểm ban đầu và các tiêu chí bản chất, trước khi xác định thế nào là một tác phẩm hay hay tác phẩm dở. Tất nhiên, hay hoặc dở lại là vấn đề khác, song cũng xuất phát trên các yêu cầu của thể loại, mà đôi khi khó bàn đến một cách thấu đáo.
Cả hai danh từ truyện ngắn và tiểu thuyết đều là những danh từ mới, dùng để chỉ những thể loại văn chương tưởng tượng (khác với văn chương lý trí như sử, triết, chính luận...), xuất hiện trong nền văn học hiện đại nước ta trên cái nền chung của cuộc cọ xát giữa văn minh phương Đông và văn minh phương Tây, từ truyền thống văn học Trung Quốc và văn học Pháp. Tất nhiên, trên thế giới, chưa hẳn đây là hai nước đầu tiên đề xuất hai khái niệm trên. Ở Trung Hoa, từ đời Tần trở về trước, tiểu thuyết là một trong ba thể loại văn chương tưởng tượng (littérature d’imagination)- bên cạnh thơ và ngụ ngôn - nhưng tiểu thuyết là những câu chuyện ngắn, có khi dịch ra tiếng Việt chỉ trên dưới mười dòng. Mãi đến thời Lục triều (năm 385) mới có những tiểu thuyết dài và sau khi tiếp xúc với phương Tây (sau cách mạng Tân Hợi, 1911) mới có truyện ngắn, được gọi là đoản thiên tiểu thuyết, mặc dù trước đó có những truyện kinh dị của Bồ Tùng Linh là truyện ngắn, là đoản thiên nhưng được tác giả gọi là tiểu thuyết.
Ở Pháp, tiểu thuyết, xuất hiện bên cạnh những truyện cổ tích được gọi là conte, cho đến thế kỷ 19, người ta viết câu chuyện tưởng tượng ra ngắn như cổ tích, chỉ khác là những chuyện này có tác giả hẳn hoi, và cũng gọi là conte. Từ đó danh từ conte (có nghĩa là sự kể chuyện) không chỉ dùng cho loại truyện cổ tích mà còn dùng để chỉ truyện ngắn(1) mặc dù nội dung hai loại hoàn toàn khác nhau, một bên là những truyện đời xưa truyền tụng trong dân gian, một bên là những truyện mới tưởng tượng ra, mang tính ngộ nghĩnh, ly kỳ hoặc ẩn chứa nỗi đau của thân phận con người, ở nước ta sự xuất hiện của văn tự mới, kéo theo sự ra đời của báo chí, làm thay đổi cả tư duy sáng tạo và tạo ra những thể loại văn học mới. Nhiều người vẫn cho rằng cuốn tiểu thuyết quốc ngữ xuất hiện đầu tiên ở nước ta là cuốn Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách(2) và khẳng định “Tiểu thuyết Hoàng Ngọc Phách đã mở ra một phương hướng mới cho tiểu thuyết truyền thống. Vị trí của cuốn tiểu thuyết này trong văn học Việt Nam có thể so sánh với vị trí của những cuốn Quận chúa Clèvese của Mme de la Fayette hay Manon Lescaut của Prévost trong tiểu thuyết Pháp”(3). Song thực tế hoàn toàn không phải vậy. Cuốn tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên được tác giả gọi là "kim thời tiểu thuyết" đó là Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản xuất bản năm 1887. Đây là cuốn sách mở đầu cho kiểu tư duy văn học mới, khác hẳn với tiểu thuyết chương hồi truyền thống, khởi từ những câu chuyện cổ, chuyện lịch sử, anh hùng như Lĩnh Nam chích quái, Vũ trung tùy bút, Hoàng Lê nhất thống chí... đó là kiểu tiểu thuyết viết về chuyện mới, có hư cấu, tưởng tượng, cấu trúc theo quá trình phát triển của tính cách nhân vật như tiểu thuyết Pháp hiện đại(4). Trong lời tựa của Thầy Lazaro Phiền tác giả viết rằng: "Đã biết rằng, xưa nay dân ta chẳng thiếu chi thơ, văn, phú, truyện nói về những đấng anh hùng hào kiệt, những tay tài cao chí cả rồi đó, mà những đấng ấy thuộc về thời xưa chứ đời nay chẳng còn nữa. Bởi đó, tôi mới dám bày một chuyện đời nay là sự thường có trước mắt ta luôn, như vậy thì sẽ có nhiều người lấy làm vui lòng mà đọc, kẻ thì cho quen mặt chữ, người thì cho đặng giải phiền một giây(...) Tôi có một dụng ý lấy tiếng thường mọi người hằng nói mà làm một truyện hầu cho kẻ sau coi mà bày đặt cũng in ra ít nhiều truyện hay, trước là làm cho con trẻ ham vui mà tập đọc, sau là làm cho dân các xứ biết rằng người An Nam sánh trí, sánh tài thì cũng chẳng thua ai"(5). Những người trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng, nhưng đi sau Nguyễn Trọng Quản một bước là Hoàng Ngọc Phách với Tố Tâm (viết 1922, in 1925), Nguyễn Trọng Thuật với Quả dưa đỏ (1925) Nguyễn Chánh Sắt với Chăng Cà Mum (1925), Hồ Biểu Chánh với Cay đắng mùi đời (1926) Nguyễn Tường Tam với Nho Phong (1927)...
Về truyện ngắn, cho đến khi Nam Phong tạp chí ra đời (1917) một trong 6 đề mục của văn xuôi tưởng tượng, mục đầu tiên là đoản thiên tiểu thuyết, mục cuối cùng là truyện ngắn. Và với 210 số báo tồn tại trong 17 năm (1917-1934) Nam Phong đã đăng tải 34 truyện ngắn của các tác giả như Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Lê Đức Nhượng, Nguyễn Văn Cơ, Mân Châu...(6)
Nhưng cũng có thể nói rằng, không phải chỉ đến Nam Phong văn chương quốc ngữ mới có truyện ngắn, mà thực chất những truyện trong Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi (1881) của Trương Vĩnh Ký, Truyện giải buồn (1886) của Huỳnh Tịnh Của... đã bắt đầu cho một lối kết cấu của một thể loại mới.
Sự vận động của thể loại, về mặt hình thức, ít nhiều tạo nên sự khó khăn cho việc xác định khái niệm. Từ khi ra đời của tiểu thuyết hiện đại đến nay, khái niệm tiểu thuyết hầu như thống nhất. Chỉ có nhóm Tự Lực văn đoàn từ năm 1933 và một số tác giả, một số nhà xuất bản ở miền Nam trước năm 1975 (như Lá Bối chẳng hạn) dùng từ truyện dài thay cho tiểu thuyết. Sở dĩ như thế là vì họ muốn khẳng định cái danh từ truyện và phân biệt với thể loại truyện ngắn. Song, đối với khái niệm truyện ngắn, thì lại trải qua một chặng đường "thay tên đổi họ" khá phức tạp.
Bởi vì, khi chúng ta tiếp thu khái niệm conte bằng cách mượn một danh từ của Trung Hoa là đoản thiên tiểu thuyết hay là truyện ngắn, để chỉ một loại truyện được sáng tác mới (chứ không phải chuyện đời xưa, chuyện kể, chuyện cổ tích) có cốt truyện, có đầu có đuôi, có trước có sau thì ở phương Tây, cũng chính vào thời điểm những năm đầu thế kỷ XX này đã xuất hiện những truyện sáng tác mới không có đầu có đuôi, có trước có sau, không có nhân vật với tên tuổi rõ ràng, những truyện không có truyện, không gian và thời gian xáo trộn, đảo ngược, xoay chiều, lộn xộn, đọc xong không thể kể lại được, và người ta gọi đó là nouvelle - một tính từ có nghĩa là “mới” biến thành danh từ đứng riêng một mình rất mơ hồ như vậy. Nhưng nouvelle là loại truyện rất sâu sắc, tế nhị, phù hợp với tâm trạng phong phú của đời sống hiện đại. Nó thiên hình vạn trạng, không có giới hạn, không có tiêu chuẩn, không thể định nghĩa được một cách rõ ràng, chuẩn xác. Về mặt hình thức, nouvelle có dài hơn conte một chút, nên người Trung Hoa cũng bắt đầu sáng tác loại này và gọi đó là trung thiên tiểu thuyết. Còn ở ta, nhóm Tự Lực văn đoàn gọi nouvelle là truyện ngắn (riêng cá nhân Xuân Diệu, một thành viên của Tự Lực văn đoàn gọi là tiểu thuyết ngắn), nhóm Tinh Hoa của Đoàn Phú Tứ gọi là truyện dài, nhóm Sống của Đông Hồ gọi là truyện vừa, nhóm Dân Quí gọi là truyện mới (dịch lại từ tân truyện đã được nhiều báo gọi là trước năm 1945)... cho đến nay, ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới, bất kể truyện viết theo lối cũ có đầu có đuôi, có cốt truyện hay viết theo lối mới rối mù, đảo lộn theo lôgic tâm trạng, cũng đều gọi là truyện ngắn (short story). Trong khi đó tiểu thuyết ở Pháp vẫn gọi là tiểu thuyết (roman) thì ở các nước Anh, Mỹ lại gọi là nouvelle. Bởi vì, cùng với truyện ngắn, tiểu thuyết hiện đại cũng có khi không có truyện, không có xung đột, cũng đảo ngược, xáo trộn thời gian và không gian nghệ thuật, tạo nên sự đa chiều, đa thanh. Xu thế này, đối với tiểu thuyết còn mạnh mẽ hơn, với tư cách là "thể loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và còn chưa định hình"(7).
Song, viết theo cách nào, theo lôgic câu chuyện hay tâm trạng, có truyện hay không có truyện, không phải là theo sự cố ý của nhà văn mà tùy theo thể tài, theo vấn đề, theo "tạng" của mỗi nhà văn. Bên cạnh sự hấp dẫn của truyện ngắn Phạm Thị Hoài luôn để mạch văn tuôn chảy theo dòng ý thức, là truyện ngắn kể có lớp lang, có đầu có đuôi của Nguyễn Huy Thiệp vẫn không kém phần hấp dẫn người đọc.
Đã có nhiều công trình, nhiều tác giả nghiên cứu sâu về đặc trưng thể loại của tiểu thuyết và truyện ngắn. Điều cần nói thêm là, dẫu có sự gần gũi nhau trong quá trình phát triển của văn thể, nhưng giữa truyện ngắn và tiểu thuyết còn có những khoảng cách rất xa. Người ta nói rằng "truyện ngắn chính là cách cưa lấy một khúc đời sống"(8) "mỗi truyện ngắn cần có một ý, một ý thôi"(9) hoặc truyện ngắn "Không có cái gì được thừa"(10), ngôn ngữ truyện ngắn là ngôn ngữ súc tích, ngắn gọn... Song tất cả những đặc tính ấy cũng đều là yêu cầu của tiểu thuyết. Chỉ có điều, dẫu sao tiểu thuyết cũng có bóng mờ của một câu chuyện nào đó, rất mong manh, như một niềm cảm thức, nhưng vẫn cứ có. Trong khi đó truyện ngắn (tức là nouvelle) không cần phải có chuyện gì hết. Tiểu thuyết bao giờ cũng chứa đựng một dung lượng hiện thực lớn hơn truyện ngắn, tiểu thuyết có thể chỉ quan tâm đến một cảnh đời, một số phận, hay hàng trăm con người, hàng trăm số phận đề cập đến hàng loạt các vấn đề đời sống, trong khi truyện ngắn chỉ có thể chọn lọc vài ba số phận tiêu biểu, một vài vấn đề cốt tử của đời sống. Cũng vì lẽ đó, thi pháp tiểu thuyết cho phép sử dụng nhiều góc nhìn nhiều quan niệm, nhiều chiều nhiều tầng lớp thời gian, không gian, ngữ nghĩa, trong khi truyện ngắn chỉ dừng lại ở vài khía cạnh, tâm trạng, đòi hỏi nói ngay, nói gọn, để chừa một khoảng trống để từ đó người đọc suy ngẫm thêm...
Quan sát sự phát triển văn học thế giới hiện đại, chúng ta thấy sự vận động đặc trưng thể loại ngày càng gần gũi nhau. Thể loại này có thể sử dụng các đặc trưng nghệ thuật của thể loại kia. Song loại nào cũng tồn tại trên sức mạnh đặc trưng thể loại của mình, không thể thay thế cho nhau, hoặc chuyển hoá lẫn nhau một cách hoàn toàn. Tóm lại, mỗi thể loại đều có điểm mạnh và điểm yếu riêng của mình, nhưng nó sẽ không loại trừ lẫn nhau, mà cũng tồn tại khi cuộc sống cần đến nó. Mặc dù, gần đây, tùy thiện cảm và khách thể nghiên cứu của mỗi người, người thì khẳng định sức sống của tiểu thuyết, người thì khẳng định sự vĩnh cửu của truyện ngắn, cả hai xu thế đều đúng, nếu chúng ta không cực đoan bằng cách đề cao loại này mà phủ nhận loại kia.
2.1993
P.P.P
(TCSH55/05&6-1993)
-------------------
(1) Bình Nguyên Lộc, Truyện ngắn, tân truyện, tiểu thuyết, tập san Văn, Sg, số 149, 1970, tr. 7.
(2) Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu (1944), Vũ Ngọc Phan - Nhà văn hiện đại (1942), Phạm Thế Ngũ - Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (1946), Thanh Lãng - Bảng lược đồ văn học Việt Nam (1968), Phan Cự Đệ - Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (1974), Nhóm tác giả - Tự điển văn học (2 tập, 1983 - 1984).
(3) Phan Cự Đệ, sđd, tr. 26.
(4) Phạm Phú Phong, Sự tác động của văn học Pháp trong quá trình hình thành và phát triển văn chương quốc ngữ; BCKH. Hội nghị Văn học thế giới đương đại trường ĐHTH Huế, 1.1993.
(5) Nguyễn Q. Thắng, Tiến trình văn nghệ miền Nam. NXB An Giang, 1990, tr. 260.
(6) Lại Văn Hùng, Truyện ngắn Nam Phong, NXB KHXH - VVH 1989, tr. 20.
(7) M.Bakhtin, Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Du, xb 1992, tr. 21.
(8), (9), (10), Tô Hoài, Nguyễn Công, Hoan, Tchékhov, dẫn theo Vương Trí Nhàn, Sổ tay truyện ngắn, NXB Tác Phẩm mới, 1978.
HOÀNG NGỌC HIẾN
(Nhân đọc mấy truyện lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp)
LGT: Cuộc thi viết cảm nhận tác phẩm văn học Hàn Quốc (lần thứ IX - năm 2014) do Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Viện Dịch thuật văn học Hàn Quốc tổ chức. Cô sinh viên năm thứ tư Hồ Tiểu Ngọc được khoa Ngữ văn, trường Đại học khoa học, Đại học Huế cử tham gia, đã vinh dự nhận giải Nhì qua bài phê bình tập truyện ngắn Điều gì xảy ra, ai biết… của nhà văn Hàn Quốc Kim Young Ha, dịch giả Hiền Nguyễn.
BBT Sông Hương vui mừng giới thiệu đến bạn đọc bài viết đạt giải cao này.
(Cuộc trưng cầu ý kiến các giảng viên dạy lý luận và lịch sử văn học ở các trường ĐHTH ở Liên Xô)
Phan Thắng thực hiện
ĐỖ LAI THÚY
Ngồi buồn lại trách ông xanh
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
(Nguyễn Công Trứ)
NGUYỄN KHẮC THẠCH
Không biết ngẫu nhiên hay cố ý mà tập thơ sẽ in riêng của nhà thơ Trần Lan Vinh lại mang tên với chữ đầu là Lục (sáu) – Lục bát đồng dao? Thôi thì cứ nói theo khẩu ngữ nhà Phật là tùy duyên nhưng điều quan trọng lại không phải ở phần cứng đó mà ở phần mềm hoặc không ở chỗ thể mà ở chỗ dụng của danh xưng.
LTS: Thời gian qua, thơ Tân hình thức Việt đã bắt đầu được nhiều bạn đọc, bạn thơ quan tâm. Tuy nhiên, nhiều người vẫn băn khoăn về việc làm sao để đọc một bài thơ Tân hình thức? Làm sao để giữ nhịp điệu của thơ?... Bài viết dưới đây của Biển Bắc, nhằm giới thiệu cách đọc-diễn một bài thơ Tân hình thức Việt. Vì muốn làm sáng ý nguyện ngôn ngữ đời thường nên bài viết sử dụng ngôn ngữ rất THT Việt. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.
ĐẶNG TIẾN
Xuân đã đem mong nhớ trở về
Lòng cô gái ở bến sông kia
Cô hồi tưởng lại ba xuân trước
Trên bến cùng ai đã nặng thề…
(Nguyễn Bính)
DÂN TRÍ
Không học chữ Nho, nghe qua hai câu thơ Hán Việt vừa dẫn thì cũng có thể hiểu được nghĩa lý một cách mang mang hồn sử thi.
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Khi mới học cấp 2, tôi đã thấy trong tủ sách nhà tôi có hai cuốn Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan và Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân do một người dượng mua về từ Sài Gòn.
THÁI KIM LAN
Bài viết này chỉ là một phác thảo gợi ý về sự nghiệp và ảnh hưởng của hai nhà nữ trí thức miền Nam trong những thập niên 60, 70. Phùng Thăng tạ thế cuối thập niên 70. Phùng Khánh đã là Ni sư giữa thập niên 60 và trở nên một Ni sư Trưởng lỗi lạc trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam trước và sau 1975, liễu sinh 2003.
YẾN THANH
“Vĩnh biệt mày, cái thằng không biết tưởng tượng. Mày tự mà đốt đuốc cho cuộc hành trình thăm thẳm của mày đi”
ĐỖ LAI THÚY
Trong một vài năm gần đây, nhiều nhà phê bình và nghiên cứu văn học đã có những cố gắng đáng kể để thoát ra khỏi tình trạng tiếp cận văn học một cách xã hội học có phần dung tục, hướng đến cách tiếp cận mới xuất phát từ đặc trưng của chính bản thân văn học. Một trong nhiều đường hướng nghiên cứu có triển vọng đó là phong cách học.
Cần phải nói ngay, Tưởng tượng & Dấu vết là cuốn tiểu thuyết khó đọc. Nó khó đọc vì hai lẽ: thứ nhất, nền tảng logic văn bản không nằm trong phương pháp tạo dựng hay trong tri thức thực hành của tác giả, mà nó nằm sâu trong yếu tính[2] thời gian.
ĐINH VĂN TUẤN
Thi hào Nguyễn Du khi sáng tác “Truyện Kiều” đã đặt tên cho tác phẩm nổi tiếng này là gì? Cho đến nay, giới nghiên cứu Kiều vẫn còn phân vân, chưa dứt khoát hẳn một nhan đề nào là khởi đầu do cụ Nguyễn Du đặt.
KHẾ IÊM
Tặng nhà thơ Biển Bắc và Hồ Đăng Thanh Ngọc
Nhà thơ và nhà nghiên cứu Mỹ Timothy Steele, trong bài viết “Phép làm thơ cho những nhà thơ thế kỷ 21”, nhấn mạnh, cách làm thơ trong thế kỷ tới sẽ là tuôn nhịp điệu ngôn ngữ nói vào thể luật, để hình thành nhịp điệu thơ.
HOÀNG DŨNG, BỬU NAM
(Phỏng vấn nhà sử học Nguyễn Hồng Phong, nhà văn Huy Phương và nhà phê bình văn học Phương Lựu)
HỒ TIỂU NGỌC
Thế kỷ XXI là thế kỷ của internet và truyền thông, nơi mọi chân lý và định luật đều gói gọn ở trong hai con số 0 và 1 của ngôn ngữ lập trình mạng.
VŨ THỊ THƯỜNG
Gần đây, nhân công việc tìm nhặt tư liệu xung quanh vụ án Lệ Chi viên để viết một cái gì đó bằng văn xuôi, tôi có đọc một số sách viết về Nguyễn Trãi. Trong số sách tôi đã đọc ấy, có hai cuốn: Văn chương Nguyễn Trãi và Chủ nghĩa yêu nước trong văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn của tác giả Bùi Văn Nguyên.