Tròn 100 năm ra đời bộ tài liệu quý (BAVH) - Tập san Những người bạn Cố đô Huế

08:54 13/10/2014

BAVH - là các chữ viết tắt của bộ tập san bằng tiếng Pháp với nhan đề: “Bulletin des Amis du Vieux Hué” (Tập san của những người bạn Cố đô Huế”. Trước đây tập san này có tên gọi là “Đô thành Hiếu cổ”. Bộ tập san này (sau này người ta gọi là tạp chí) được xuất bản và lưu hành tại Việt Nam và Pháp từ năm 1914 đến năm 1944. Thế là tròn 100 năm ra đời bộ tạp chí danh tiếng này.

Trang bìa một số tập của BAVH

Người sáng lập và là Tổng biên tập của tạp chí này là Linh mục Léopold Michel Cadière (thường gọi tên Việt là Cố Cả). Tạp chí lúc đầu có trên dưới 10 người gồm cả người Việt và người Pháp đảm nhiệm, về sau thì đông hơn. Số cộng tác viên [CTV] tham gia viết bài ngày càng gia tăng. Tính đến số cuối cùng của bộ tạp chí này thì số CTV lên tới hơn 140 vị, gồm các nhà nghiên cứu Pháp và Việt (trong đó Việt Nam hơn 30 người).

Toàn bộ của tạp chí BAVH này đã ấn hành được 121 tập và 1 tập danh mục. Thông thường thì mỗi năm tạp chí ra mắt bạn đọc được 4 số riêng biệt (3 tháng 1 số). Nhưng cũng có năm xuất bản ghép vài số thành một tập.
 
Về hình thức của bộ tạp chí  BAVH đơn giản, nhưng rất trang trọng, in ấn rõ ràng. Tờ bìa mỗi tập đều được trang trí hoa văn, tranh ảnh cổ xưa khác nhau. Bên trong tạp chí, các sơ đồ, bản đồ được ghi chú mạch lạc, cẩn thận, các tranh ảnh khá điển hình, nổi bật. Tranh ảnh được trình bày trong BAVH hầu hết đều do các tác giả, nghệ nhân, họa sĩ Việt Nam và Pháp thực hiện.
 
Về nội dung của BAVH thì rất phong phú, đa dạng các vấn đề về văn hóa nghệ thuật, giáo dục, xã hội, nhân văn, lịch sử, địa lý, dân tộc học, thương mại, môi trường, du lịch v.v…
 
Trong toàn bộ BAVH có gần 500 bài viết gồm nhiều lĩnh vực và hơn 30 bài tiểu dẫn, chú giải quan trọng. Phần đông các tác giả Pháp và Việt Nam đã dành nhiều thời gian tham khảo, thu thập tư liệu, đi điền dã thực tế rồi nghiên cứu viết bài cho tạp chí. Chẳng hạn như ông Cadière viết được trên 50 bài; ông Orband -30 bài; Coserat -hơn 30 bài; Nguyễn Đình Hòe -10 bài; Ưng Trình -trên 10 bài v.v… Cũng có những bài mà tác giả là cả Pháp và Việt cùng nhau viết chung như bài: “Liệt kê các miếu thờ tự của Huế” của Sallet và Nguyễn Đình Hòe (số1/1914), như bài: “Việc ban hành những luật lệ mới…” của Orband và Hoàng Yến (số 4/1917), hoặc như bài: “Bia lăng Thiệu Trị” của Laborde và Nguyễn Đôn (số1/1918); v.v…
 
Đặc biệt là ông Cadière là một người Pháp đã sống ở Việt Nam rất lâu (hơn 50 năm, mà chủ yếu là sống ở Huế và Quảng Trị). Cuối đời ông, ông muốn ở lại Huế. Đến năm 1955, ông đã từ trần. Mộ của ông trong nghĩa trang của Đại chủng viện Huế tại Kim Long.
 
 
Nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước cho rằng những nguồn thông tin tư liệu đã được đăng tải trong bộ BAVH này phần nhiều là rút ra từ những tư liệu có sẵn trong các sách cổ xưa ở Việt Nam và ở Pháp cùng với những vấn đề đã được khảo sát qua các cổ vật, chứng cứ thu thập được trên thực tế đã làm tăng thêm độ tin cậy cho người đọc. Tuy vậy, cũng có một số tư liệu còn mang tính phỏng đoán, suy luận nên cũng có những mặt hạn chế về tính khách quan, chân thực của chúng. Và điều đó thì cũng là lẽ thường gặp trong một số bài nghiên cứu trước đây cũng như hiện nay. Tất nhiên qua quá trình sử dụng các tài liệu trong bộ BAVH,  người ta sẽ tìm thấy được những cái gì có hàm lượng lớn về tính khoa học  thì có độ tin cậy và giá trị của nó càng cao.
 
Chính vì sự phong phú về nội dung của BAVH mà đã hấp dẫn các nhà nghiên cứu ngày nay. Họ luôn luôn gắn bó một cách mật thiết và trân trọng. Thậm chí có nhiều người coi BAVH như một kho tài liệu lớn để khai thác nhiều loại “tài nguyên” của đất nước và con người Việt –Pháp, mặc dù chưa phải là đầy đủ và toàn diện cho lắm.
 
Đặc biệt, trong toàn bộ tập san này có hơn 50 công trình nghiên cứu về Việt Nam của L.Cadière đã được đăng, trong đó có mấy chục bài nghiên cứu về Huế. Ngoài ra, có một quyển riêng “L’Art a Huế” (nghệ thuật ở Huế). Quyển này đã được tái bản mấy lần với hàng trăm bức ảnh có giá trị nghệ thuật cổ xưa tại Cố đô Huế.
 
Nội dung tài liệu trong bộ tạp chí này rất quý giá về nhiều lĩnh vực, nhất là về dân tộc học, lịch sử, địa lý, văn hóa, xã hội… Đây là tạp chí khoa học có giá trị nhất của toàn cõi Đông Dương hồi đó. Các thiên khảo cứu vẫn còn mang tính thực tiễn sâu sắc đối với các nhà nghiên cứu ngày xưa và cả ngày nay. Một phần nhỏ của bộ tập san BAVH này đã được dịch ra bằng tiếng Việt (do nhóm dịch thuật tại Huế đã biên dịch) để tiện bề tham khảo nghiên cứu đối với các nhà khoa học trong và ngoài nước. Ngoài ra, còn có nhiều tác phẩm của L.Cadière rất có giá trị cho việc tham khảo nghiên cứu khoa học ngày nay. Chẳng hạn như:
 
1. Les irrigations en Annam (Những việc thủy lợi ở An Nam) - Léopold Cadière. - Hanoi : L'Avenir du Tonkin, [?]. 4 articles.
 
2. Le Projet de réforme de l'Instruction en Indochine (Dự Án Cái Cách Học chính tại Đông Dương ) Léopold Cadière. - Hanoi : L'Avenir du Tonkin, [?]. 5 articles.
 
3. Sauvons nos pins (Hãy cứu lấy những cây thông của chúng ta ) BAVH p. 437-443; 
 
4. Monuments et souvenirs chams du Quang-Tri et du Thua-Thien (Các công trình và kỷ niệm Chàm của Quảng-Trị và Thừa Thiên )- par L. Cadière. - Hanoi: F. -H. Schneider, 1905. - [10] p.; 27 cm. Extr. de: BEFEO 5 (190(5) 185-195.
 
5. Les Hautes vallées du Song-Gianh (Các thung lũng miền thượng của Sông Gianh) - par L. Cadière, de la Société des Missions étrangères de Paris, corespondant de l'Ecole française d'Extrême-Orient. - Hanoi: F. - H. Schneider, 1905. - [19] p.; 27 cm. Extr. de: BEFEO 5 (1905) 349-367.
 
6. Chansons populaires recueillies dans la province de Quang-Binh (Các bài hát dân gian được thu thập trong tỉnh Quảng Bình ) par L. Cadière. - Hanoi: IDEO, RI, 1905. - p. 1030-1034.
 
7.Plantes alimentaires et médicinales du Quang-Binh et du Quang-Tri (Các loài cây dùng làm thực phẩm và thuốc của Quảng Bình và Quảng Trị ) -L. Cdière. - Hanoi: Bulletin des Etudes Indochinoises, 1905. - p. 894-896.
 
8. Les tombeaux royaux de Hué  (Các lăng mộ vua chúa ở Huế) -L. Cadière. - Paris: Annales des Missions Étrangères, 1906.- p. 83-92.
 
9. Le Mur de Dong-Hoi: étude sur l'établissement des Nguyên en Indochine (Lũy thành Đồng Hới: nghiên cứu về sự thành lập của nhà Nguyễn tại Đông Dương )- par L. Cadière. - Hanoi: BEFEO 6/1-2, 1906. - p. 87-254.
 
10. Textes et documents relatifs à la réforme du quôc-ngu (Văn bản và công trình liên quan đến việc cải cách quốc ngữ). par L. Cadière ; publ. par la Direction générale de l'Instruction publique de l'Indo-Chine. - Hanoi : F. H. Schneider, 1907. - 37 p. ; 28 cm. Tiré à part de l'Avenir du Tonkin 1906.
 
11. A la recherche des ruines chames  (Đi tìm các tàn tích Chàm )-L. Cadière. - Lyon: Les Missions Catholiques, 1906 p.1937-1941.
 
12. Philosophie populaire annamite: Cosmologie  (Triết lý dân gian An Nam: Vũ Trụ Học )- L. Cadière. - St. Gabriel Mödling, Autriche: "Anthropos" (Vienne) ; vol. II (1907) p. 116-127, 955-969, vol. III (1908) p. 248-271. – Hanoi 12: [réimpr. dans Revue Indochinoise] RI, 1909, p. 835-847, 974-989, 1189-1216.
 
13. Le Culte des Pierres en Annam =(Việc thờ tự đá ở An Nam) -L. Cadière. - Lyon : Les Missions Catholiques, 1911 p. 2209-2218.
 
14. La colonisation annamite des Terres Rouges du Gio-linh (Việc người Annam khai thác đất đỏ Gio Linh), BAVH, p. 207-210. 
 
15. De la nécessité d'établir en Indochine des réserves botaniques, avec protection intégrale  (Về sự cần thiết phải lập các khu rừng bảo vệ thực vật ở Đông Dương), L. Cadière. -Hanoi: Taupin, INDO, 1942. - p. 8-9.
 
Theo khamphahue.com
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • SHO - Hòa chung trong không khí tiến tới kỷ niệm thống nhất đất nước, sáng ngày 26/3 tỉnh Thừa Thiên Huế trang trọng tổ chức Lễ mitting kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng Thừa Thiên Huế (26/3/1975- 26/3/2015) tại Sân vận động Tự Do, Thành phố Huế.

  • SHO - Chào mừng kỷ niệm 40 năm ngày giải phóng quê hương Thừa Thiên Huế (26/3/1975- 26/3/2015), Liên hiệp các hội VHNT tỉnh Thừa Thiên Huế phối hợp với Hội Nhiếp ảnh Thừa Thiên Huế tổ chức khai mạc triển lãm ảnh thời sự nghệ thuật với chủ đề: “Thừa Thiên Huế- 40 năm xây dựng và phát triển”  vào chiều ngày 25/3, tại Bảo tàng Văn hóa Huế - số 25 Lê Lợi - Thành phố Huế.

     

  • Tiếp bước hành trình khám phá những ngôi chùa Huế, ta sẽ đến với một ngôi chùa – một tổ đình – nơi thể hiện tấm lòng bao dung của nhà Phật với những con người không toàn vẹn – Từ Hiếu. Chùa nằm ở thôn Dương Xuân Thượng III, xã Thủy Xuân, thành phố Huế.

  • Khi bàn về Nhã nhạc người ta thường chú trọng nhiều đến thành phần, biên chế các loại dàn nhạc và bộ phận nhạc không lời do các nhạc cụ diễn tấu, mà ít đề cập đến một bộ phận quan trọng của Nhã nhạc là thể loại nhạc có lời.

  • Trong kiến trúc cung đình Nguyễn tại Huế, hình thức nhà tạ có mặt ở khắp nơi: Hoàng cung, Hành cung, Biệt cung và ở cả các lăng tẩm đế vương.

  • Để nhã nhạc cung đình Huế “sống lại” như ngày hôm nay, có công rất lớn của cụ Lữ Hữu Thi- nhạc công cuối cùng của triều Nguyễn. Cụ đã âm thầm, kiên trì vượt qua khó khăn trước những thăng trầm của lịch sử để giữ gìn và trao truyền ngọn lửa nhã nhạc, đưa nhã nhạc từ chỗ bị lãng quên trở thành di sản của nhân loại.

  • Nhà văn Nguyễn Tuân đã tinh tế nhận xét: “Người Huế ăn bằng mắt trước khi ăn bằng miệng”.

  • Ngài thủy tổ họ Hồ Đắc làng An Truyển, xã Phú An, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên Huế vốn là gốc từ ngoài bắc vào lập nghiệp thường được dân làng gọi là Hồ Quản Lãnh.

  • Nói thiệt thì o Huế của tôi cũng có uy lắm đấy, đừng tưởng là o hiền. Đôi lúc vui miệng tôi hỏi o: “Vậy chớ Kho Rèn ngoài nớ nó rèn cái giống gì vậy?”, thì o không trả lời mà trừng mắt nhìn tôi!!!

  • Địa danh Thanh Hà thuộc xã Hương Vinh, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên-Huế ngày nay. Nằm phía bờ tả ngạn sông Hương, cách kinh thành Huế 4 km, cách cửa biển Thuận An khoảng 10km. 

  • Tranh làng Sình đã trở thành nhu cầu của đời sống văn hóa, là thành tố của mỹ thuật cổ truyền và hợp thành văn hóa truyền thống xứ Huế.

  • Sáu câu chuyện dưới đây là 6 lần thoát chết của vua Gia Long do Diễn đàn lịch sử Việt Nam biên tập, xin giới thiệu đến với quý bạn đọc.

  • Đêm xuống, sau khi chờ cha đi ngủ, đứa bé mới trốn cha đi học hát. Người chị cột sợi dây ở ngón tay, đầu dây kia móc ở ngách cửa, lơ mơ ngủ. Khuya, cô em gái về, khẽ giật sợi dây, cánh cửa được hé ra, một bóng nhỏ loắt choắt nhanh nhẹn len vào trong, bóng đêm im lìm phủ lấy ngôi nhà, không một ai hay biết.

  • Từ xa xưa, nghệ vàng thuốc bắc là một trong những phương pháp bí truyền của các bà mụ xứ Huế để giúp các mỹ nữ Cung Đình lấy lại vóc dáng thon gọn và làn da hồng hào, quyến rũsau khi sinh.

  • Từ xưa cho tới nay, câu chuyện về những cổ vật là đồ tùy táng luôn được bao trùm bởi những lời đồn thổi nhuốm màu ma mị tâm linh. Người nào lấy trộm hoặc có được những thứ không phải của mình sẽ bị quả báo. Nhưng dù rùng rợn ma quái đến đâu, dù cho những lời nguyền quả báo có ám ảnh thế nào đi chăng nữa thì những món đồ cổ có giá vẫn luôn có sức hút đối với những kẻ khoét ngạch trộm cổ vật…

  • Theo Nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, khi biên soạn cuốn sách “Lịch sử khẩn hoang miền Nam”, nhà văn Sơn Nam đã lặn lội từ Nam Bộ ra Huế, ngược dòng Hương Giang, lên đến ngã ba Tuần, rồi vượt sông qua bên tê tả ngạn dòng Tả Trạch để kính viếng lăng chúa Nguyễn Phúc Chu....

  • Nằm dưới chân nơi an nghỉ của cụ Phan Bội Châu, là ngôi mộ của hai chú khuyển. Ngày hai chú khuyển mất, chính bàn tay cụ Phan chôn cất và lập bia mộ. Gần 100 mùa xuân đi qua, câu chuyện về hai chú khuyển trung thành cũng phai nhạt trong ý niệm bao người. Đến bây giờ, nhiều người lại đặt ra câu hỏi: Vì sao lại có hai ngôi mộ ấy?

  • Từng lâm cảnh đầu rơi với thịt nát xương tan, người ta đồn rằng đây là những vị thần trấn yểm, bảo vệ giấc ngủ và gìn giữ kho báu mà triều thần an táng cùng Vua Gia Long dưới lòng cổ mộ!

  • Du khách đến Huế, dường như ai cũng muốn tham quan những cung điện vàng son một thuở bên trong những vòng tường thành rêu phong cổ kính, hay viếng thăm những lăng tẩm uy nghi của các vị vua triều Nguyễn đang giấu mình dưới bóng cổ tùng nơi vùng đồi núi chập chùng ở phía tây Kinh Thành Huế…

  • Lên A Lưới, tỉnh Thừa Thiên - Huế những ngày này, khắp các bản làng của đồng bào dân tộc Pa Cô đều đang rộn ràng chuẩn bị đón lễ hội A Za - ngày Tết truyền thống của đồng bào trên đỉnh Trường Sơn này. Đây cũng là thời điểm kết thúc vụ mùa cuối năm, khi những hạt lúa, bắp ngô, củ sắn… đã được thu hoạch và cất vào trong kho của mỗi gia đình; là lúc để bản làng trẩy hội, cất lên những điệu khèn, điệu múa… hay nhất đón chào Tết A Za.