Trọ đêm

14:39 27/04/2009
S.MROZEKCó một lần tôi đi du lịch.Vì không có tàu trực tiếp đến nơi tôi cần tới nên tôi phải xuống một ga dọc đường để chuyển sang tàu khác.Hôm đó là một buổi tối. Mãi sáng hôm sau con tàu tiếp theo tôi sẽ phải đi mới đến.Tôi rời nhà ga, vào thị trấn để kiếm nơi ở trọ.

Nhà văn Slawomir Mrozek (Ba Lan)

Trong khách sạn không còn chỗ, nơi khác cũng vậy. Cuối cùng người ta mách cho tôi một địa chỉ mà họ đảm bảo là có chỗ.
Đó là một ngôi nhà thấp, to, trong vườn.
- Nếu anh muốn, tuỳ anh - chủ nhà nói. - Nhưng ở đây là sợ.
 Đêm không nhà tôi còn sợ hơn là đêm mất ngủ. Mà thực ra đêm không nhà thì cũng có thể là đêm mất ngủ.
- Nhưng sợ cái gì nào?
- Nói chung là sợ.
- Nói chung - thì tốt hơn và tệ hơn. Tệ hơn vì chưa biết chuyện gì. Tốt hơn cùng một lý do như vậy. Tôi đồng ý.
- Tôi cảnh báo cho anh, - chủ nhà nói, đoạn dẫn tôi vào phòng, nơi ngoài các trang bị khác còn có một chiếc tủ to.
Khi còn lại một mình, tôi ngó qua cửa sổ. Chẳng nhìn thấy gì. Tôi suy nghĩ, cái phải sợ là cái gì. Tôi cởi áo com lê và khoác lên tay ghế.
Điều gì đang đợi tôi đây?

Tôi đổ nước từ bình vào chậu thau.
Xương người, áo người chết, đầu lâu?
Tôi rửa mặt.
Mình gõ đều đều vào cửa kính chăng?
Tôi dùng khăn lau mặt.
Hay lăn đầu khắp nền nhà?
Tôi cởi giầy.
Một con chó đen, to chăng?
Tôi nhìn vào gầm giường.
Cuối cùng tôi cởi quần áo và quẳng xuống giường. Tôi không thể ngủ được.
Có người thắt cổ trong tủ chăng?
Tôi vùng dậy và mở tủ. Trống không.
Tôi dập cửa tủ lại và nằm xuống giường. Không có ánh lân tinh, trừ mặt đồng hồ đeo tay. Lúc đó đã quá nửa đêm. Thời điểm gay go nhất đã qua.

Rõ ràng chủ nhà đã trêu chọc tôi.
Rốt cuộc tôi nghe thấy tiếng sột soạt nho nhỏ, nhưng rõ.
Tôi ngồi dậy, bật đèn. Tiếng sột soạt trong tủ.
Tôi cầm chiếc đèn bàn đi lại phía tủ. Tôi thò đầu nhìn qua cửa hé mở, soi đèn.
Tôi nhìn thấy một con chuột.
Tôi sập cánh cửa tủ lại, ra ngồi ghế.
Như vậy là nó đã đến và dọa tôi chẳng khó khăn gì.
Có lẽ nó đến rồi, đội lốt chuột.
Nhưng chỉ có thế thì không đáng sợ.
Liệu có đúng là không đáng sợ hay không?

Nếu con chuột xuất hiện về chuyện đó, nếu nó phải có nghĩa gì đó, thì cái đó còn ghê sợ hơn là cái bóng ma hoặc bộ xương người. Một con ma kinh khủng chỉ là một con ma kinh khủng. Nhưng một con chuột thông thường là gì, nếu nó không phải là chuột thông thường?
Đàng sau nó ẩn náu điều gì đây?
Tôi dựng tóc gáy.
Có lẽ đàng sau nó chẳng có gì ẩn náu cả.
Tôi bình tâm trở lại.
Như vậy là có gì đó còn đáng sợ hơn các loại ma - hoặc nói chung không có gì phải sợ.
Lấy gì để tin bây giờ?

Tôi thận trọng ngó vào tủ một lần nữa. Nó ngồi trong góc tủ, con chuột xám. Nó có nghĩa là cái gì đó hay không nào? Nhìn nó thì chẳng nhận ra điều gì. Nó nhìn tôi bằng cặp mắt giống như hai hạt anh túc. Từ hai hạt anh túc có thể đọc được điều gì đây?
Tôi sập cửa tủ lại. Tôi toát mồ hôi lạnh.
Cũng có thể không. Nhưng nếu...
Tôi chộp chiếc giầy và đập chết con chuột. Tôi thở phào.
Nhưng lúc đó tôi nhìn thấy tay mình cầm chiếc giầy. Trước đó không khi nào tôi để ý đến chiếc giầy này.
Tôi đặt giầy xuống đất và bắt đầu quan sát.
Giầy thì vẫn là giầy.
Ây chính vì thế mà tôi lại sinh nghi.
Vì nó có gì đó rất là giầy.

Tôi quyết định làm cho nó bị bất ngờ. Tôi cầm lấy tờ báo và tôi giả vờ đọc.
Sau đó thình lình tôi quay đầu lại. Chiếc giầy lúc này có vẻ như chưa bao giờ không phải là giầy.
Cái đó cũng chưa chứng tỏ điều gì.
Tôi lặp lại thí nghiệm mấy lần. Kết quả vẫn chỉ thế.
Tôi tắt đèn và nằm xuống giường. Nhưng không thể chợp mắt.
Chiếc giầy đã ở đó. Trong bóng tối, nhưng đã ở đó.
Thình lình tôi bật dậy và ngồi trên giường. Tim đập thình thịch.
Nếu đó không phải là chuột, nếu đó là giầy...
Hoặc cả chuột, cả giầy...

Tôi đứng dậy, bật đèn, mở cửa sổ và ném chiếc giầy ra ngoài vườn.
Tôi đóng cửa sổ, tôi vào rửa tay. Tôi giương tay lên.
Tay áo ngủ của tôi quá ngắn. Có thể do vậy mà tôi thấy, tay tôi là những cánh tay.
Đúng, nói dối vô ích. Đó là những cánh tay.
Của ta.
Nhưng là những cánh tay.
Nhưng của ta!
Tôi ngồi xuống bên bàn. Tôi đặt hai tay trước mặt. Một sự thật nghiệt ngã lộ ra. Đó là những cánh tay. Và đang nằm trước mặt tôi.
Vậy thì thậm chí chúng chẳng phải là của tôi, một khi trước mặt tôi.
Tay khác giầy chỉ là ở chỗ nó là tay. So với chuột cũng vậy. Ngoài ra không có gì khác.

Nhưng nếu cái sợ gồm cả giầy, cả chuột, cả những cánh tay thì sao?...
Lúc bình minh chủ nhà gõ cửa phòng tôi. Mang bữa sáng cho tôi. Bởi lẽ tôi không đáp lại, chủ nhà bẻ khoá vào phòng. Ông chủ nhà làm động tác thở nhân tạo và tôi tỉnh lại.

LÊ BÁ THỰ dịch (Từ nguyên bản tiếng Ba Lan)
(
167/01-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HANS CHRISTIAN ANDERSON   

    Hans Christian Andersen sinh tại Odense, Đan Mạch, thuộc gia đình bình dân, cha là thợ đóng giày, mẹ là thợ giặt. Tuy gia cảnh tầm thường, cha ông lại say mê văn học, ông có cả một tủ sách văn học quý giá. Từ sau khi cha qua đời (năm Andersen 11 tuổi), cậu bé đã được thỏa thích đọc những quyển sách cha để lại.


  • George Saunders - Franz Kafka

  • Brazil, nhà văn danh tiếng Jorge Amado nói, không phải là một quốc gia mà là một lục địa. Trong phần đóng góp mới nhất của loạt nhà văn trẻ xuất sắc được tạp chí Granta giới thiệu, họ kể những câu chuyện rộng lớn và hấp dẫn của xã hội Brazil hiện đại và ai là tương lai của nó; trong những nhà văn chưa từng được dịch và giới thiệu này góp mặt có Ricardo Lísias đã xuất bản hai tiểu thuyết rất hấp dẫn người đọc.
    Xin chuyển dịch sang Việt ngữ từ bản dịch sang Anh ngữ của Daniel Hahn: “My chess teacher”.
                                  Dương Đức dịch và giới thiệu

  • Daly sinh trưởng tại thành phố Winchester, bang Indiana, Hoa Kỳ. Ông có bằng Cử nhân Văn chương của đại học Ohio Wesleyan University và bằng Bác sĩ Y khoa của đại học Indiana University. Trong 35 năm, ông là bác sĩ phẫu thuật tại Columbus, Indiana. Ông từng là một bác sĩ phẫu thuật cấp tiểu đoàn trong chiến tranh Việt Nam.

  • AMOS OZ

    Sáng sớm, khi mặt trời chưa mọc, tiếng gù của đôi chim bồ câu trong bụi cây bắt đầu trôi qua ô cửa sổ để mở.


  • ALBERTO MORAVIA

  • KATHERINE MANSFIELD (Anh)     

    Thời tiết thật tuyệt vời. Người ta sẽ không có một bữa tiệc ngoài trời hoàn hảo hơn nếu họ không tổ chức tiệc vào ngày hôm nay.

  • Shun Medoruma (sinh năm 1960) là một trong những nhà văn đương đại quan trọng nhất của Okinawa, Nhật Bản. Ông được giải Akutagawa Prize năm 1997 với truyện ngắn “Giọt nước” (Suiteki).

  • Có lẽ tác giả tâm đắc lắm với truyện này nên mới chọn để đặt tên cho cả tuyển tập. “The Persimmon Tree, and Other Stories (1943)” gồm 15 truyện ngắn, góp phần mang lại chỗ đứng vững vàng trong văn đàn nước Úc cho nhà văn nữ Marjorie Barnard (1897-1987), người có thể sáng tác nhiều thể loại khác nhau, kể cả phê bình và lịch sử.

  • MARK TWAIN  

    M. Twain (1835 - 1910) là nhà văn lớn của Mỹ, từng phải lăn lóc nhiều nghề lao động chân tay trước khi trở thành nhà văn, do đó văn của ông rất được giới lao động ưa chuộng.

  • L. TOLSTOY

    Các anh em từng nghe nói rằng: mắt đền mắt, răng đền răng; còn ta nói với các anh em rằng: đừng chống lại kẻ ác. (Phúc Âm theo Matthiew V, 38, 39).

  • VẠN CHI (Trung Quốc)

    Tôi nhớ hình như ở đây có một bến ô tô buýt. Phải, phải rồi, ngay chỗ giờ đây cô gái kia đang đứng, dưới ngọn đèn đường ảm đạm ấy. Tôi thong thả bước tới, hỏi thăm.

  • Peter Bichsel sinh tại Lucerne (Thụy Sĩ) ngày 24 tháng 3 năm 1935, là con của một người thợ thủ công. Ông là nhà giáo dạy tại một trường tiểu học cho tới năm 1968.

  • Chitra Banerjee Divakaruni sinh năm 1957 tại Calcutta, Ấn Độ. Bà học đại học tại Đại học Calcutta. Năm 1976, bà đến Mỹ học thạc sĩ và tiến sĩ, sau đó dạy văn chương tại các đại học ở đó. Bà làm thơ, viết tiểu thuyết và truyện ngắn, được trao nhiều giải thưởng văn học. Ngoài ra bà còn sáng lập tổ chức Maitri chuyên trợ giúp phụ nữ Nam Á bị xúc phạm.

  • SAKI   

    1. Saki là bút hiệu của nhà văn Hector Hugh Munro (1870 - 1916), sinh tại Miến Điện (nay là nước Myanmar) khi nước này còn là thuộc địa của Anh.

  • Kevin Klinskidorn trưởng thành ở Puget Sound - một vùng ven biển tây bắc bang Washington và hiện sống ở bờ đông tại Philadelphia. Anh đã được giải thưởng Nina Mae Kellogg của đại học Portland State về tác phẩm hư cấu và hiện đang viết tiểu thuyết đầu tay.

    Truyện ngắn dưới đây của anh vào chung khảo cuộc thi Seán Ó Faoláin do The Munster Literature Center tổ chức năm 2015.

  • NAGUIB MAHFOUZ  

    Naguib Mahfouz là nhà văn lớn của văn học Arab. Ông sinh năm 1911 tại Cairo (Aicập) và mất năm 2006 cũng tại thành phố này. Mahfouz đã viết tới 34 cuốn tiểu thuyết và hơn 350 truyện ngắn. Cuốn tiểu thuyết lớn nhất của ông là Bộ ba tiểu thuyết (The trilogy) (1956 - 1957).
    Mahfouz được trao giải Nobel văn chương năm 1988.

  • Pete Hamill sinh ngày 24 tháng 6 năm 1935, tại Brooklyn, New York, Hoa Kỳ. Ông là nhà văn, nhà báo. Ông đi nhiều và viết về nhiều đề tài. Ông từng phụ trách chuyên mục và biên tập cho báo New York Post và The New York Daily News.

  • Truyện này được dịch theo bản tiếng Pháp nên chọn nhan đề như trên (Je ne voulais que téléphoner, trong cuốn Douze Contes vagabonds, Nxb. Grasset, 1995) dù nó có vẻ chưa sát với nguyên bản tiếng Tây Ban Nha của tác giả (Sole Vina a Hablar por Teléfono) - Tôi chỉ đến để gọi điện thoại thôi.

  • Eugene Marcel Prevost, nhà văn và là kịch tác gia người Pháp, sinh ngày 1/5/1862 tại Paris, mất ngày 8/4/1941 tại Vianne, thuộc khu hành chính Lot- et-Garonne. Năm 1909, ông được mời vào Hàn lâm viện Pháp.