Trò chuyện với nhà thơ Nguyễn Khắc Thạch

14:39 12/07/2023


TRẦN NHẬT THU

Ảnh: internet

Trần Nhật Thu (T.N.T): Nghe nói một thời gian dài ông thiền. Vậy ông đã ng ra điều gì?

Nguyễn Khắc Thạch (N.K.T): Người ta nói uống rượu là cốt để say. Cũng vậy, thiền là cốt để ngộ. Song, để say thì ai cũng có thể làm được trong chốc lát còn để ngộ thì không dễ mấy ai làm nổi trong một kiếp người. Đương nhiên, đấy là sự ngộ ở cấp độ Phật học, tức ngộ đạo. Tôi cũng có hành thiền nhưng chưa bao giờ dám mơ là mình được ngộ đạo ở kiếp “tay đã nhúng chàm” này. Chắc câu hỏi mà anh đặt ra ở đây hẳn không hàm ý mỉa tôi đấy chứ?

Thực ra thì nhờ thiền mà tôi cũng ngộ ra một điều rằng: giữa thiền và thơ, người ta chỉ được chọn một mà thôi. Mặc dầu đôi khi, tôi vẫn cảm thấy giữa thiền và thơ có một quan hệ nào đó tựa hồ như bóng với hình. Song, thiền thì ngộthơ thì mê. Thiền là trở về với “bản lai diện mục” còn thơ lại phiêu lưu vì những gì mới lạ. Bởi vậy, từ khi hành thiền, tôi không có hứng làm thơ nữa. Tôi cũng đọc khá nhiều thơ thiền nhưng công bằng mà nói thì đa phần, đấy chỉ là những bài kệ chứng đạo hoặc nói cách khác, thơ thiền là một phương tiện biểu ngộ của các thiền sư. Trường hợp thơ viết trong cửa Phật mà “đời” đến nỗi “lạnh cả trời” như bài Ngôn hoài của thiền sư Không Lộ thì quả là điều bất khả tri luận.

T.N.T: Quê Yên Thành Nghệ An lấy vợ sinh con ở Quảng Bình, lập nghiệp rồi cư ngụ lâu dài ở Huế. Trong ba nơi ấy nơi nào để lại dấu ấn trong đời văn của ông. Ông yêu nơi nào nhất? Vì sao?

N.K.T: Câu hỏi này có vẻ “cổ điển” nhưng cũng khá thú vị khiến tôi nghĩ đến câu thơ Chế Lan Viên “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở - Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. Thực ra thì tôi cũng chỉ là một tha nhân “sinh vô gia cư” và thật khó thoát cảnh “tử vô địa táng”. Song, điều đó đối với tôi không quan trọng. Tôi thấy trong tử vi, nó chỉ khu biệt “thời gian sinh mệnh” chứ không phân biệt “không gian cục bộ” như trong lý lịch. Tử vi là “áo trời”, lý lịch là “áo người”. Tôi thích áo trời không có đường may. Lẽ vậy, tôi ở đâu thì mọi nỗi niềm của tôi ở đấy.

T.N.T: Thơ như “Dòng sông một bờ” (cũng là tên tập thơ của ông). Bơi giữa dòng rồi thì không có bờ để quay trở lại. Có bao giờ ông cảm thấy mệt mỏi chán chường giữa dòng ấy chưa?

N.K.T: Khi đứng trước biển tôi ngỡ đấy là dòng sông một bờ. Trước những gì lớn lao cũng đều vậy. Tình yêu và thi ca là thiêng liêng, là thăm thẳm. Trên hành trình ấy, cũng có khi tôi cảm thấy mệt mỏi chán chường nhưng vẫn bị “ma đưa lối, quỷ dẫn đường” và cứ thế mà bơi, bơi như ngọn sóng, biết nửa vời tan vỡ vẫn dâng lên...

T.N.T: Nếu có, thì làm sao ông bơi trở lại? Và cách gì tới được bờ bên kia?

N.K.T: Dòng sông ấy cũng là một ý niệm về thời gian. Thời gian có quay ngược đâu mà tôi bơi trở lại được. Còn bằng cách gì để tới được bờ bên kia ư? Mỗi khi “trốn” vào thiền, tôi lại gặp câu thần chú “yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha”, nghĩa là: đi qua, đi qua, đi qua bờ bên kia, đi qua bến bờ bên kia, bến bờ giác ngộ. Tôi nghĩ bến bờ giác ngộ là sự hóa sinh của khát vọng. Và, có lẽ không còn cách nào khác, tôi sẽ đi qua bến bờ bên kia bằng khát vọng.

T.N.T: Có lần ông phát biểu: “Thơ là cái đẹp mong manh, cái đẹp trong sự đổ vỡ của nó. Thơ hiện nay là cái đẹp “bội thực” cái đẹp khốn cùng có bảo hiểm”, ông Thạch này, hình như hơi bí hiểm! Ông có thể nói rõ hơn.

N.K.T: Đúng vậy, tôi đã nói đâu đó, thơ là cái đẹp mong manh, cái đẹp trong sự đổ vỡ của nó. Không chỉ có thơ, mọi cái đẹp đều mang trong nó thuộc tính ấy. Điều này, nó vừa thuộc hiện tượng tâm lý vừa thuộc cơ chế “bỉ sắc tư phong” đầy nghiệt ngã của tạo hóa. Chẳng phải Nguyễn Trãi cũng đã từng thốt lên “Hoa thường hay héo, cỏ thường tươi” hoặc Nguyễn Du là “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” đó sao.

Cái đẹp của thơ là cái đẹp thuần khiết, cái đẹp tự thân. Thơ hiện nay cũng có cái đẹp (nói đúng hơn là vẻ đẹp) nhưng phần lớn là do người ta “mông má” cho nó bằng sự “bức xạ” của trí tuệ. Thậm chí, có người còn dùng cả tiền bạc, bằng mọi cách, để “tiếp thị” cho thơ của mình được “đẹp mã” lên. Cái đẹp kiểu ấy chỉ làm “bội thực” đối với các chủ thể thẩm mĩ và chính nó là cái đẹp khốn cùng có bảo hiểm.

T.N.T: Đọc thơ ông lúc nào cũng cảm thấy cô đơn, thảng thốt phải đối diện với mình, nhưng lại rất tự tin! Trốn mà chi/ Khoảng trống cô đơn còn rộng lưu mặt đất/ Tôi đi rồi. Em đứng khóc sau mưa.

Ám ảnh của tuổi thơ hay vì lẽ gì khác? Với thơ ông tự tin được như thế không?

N.K.T: Quả vậy, anh đã “điểm huyệt” tôi bằng “ngón nghề” phân tâm học rồi đấy. Ám ảnh tuổi thơ lắt lay bi thương và mặc cảm tự tôn bẽ bàng bi tráng thường “thảng thốt” trong tôi mỗi khi thơ đến. Với thơ, tôi không tin ở mình nhưng lại tin vào bạn đọc. Đành rằng, bạn đọc của tôi cũng mong manh trong giới hạn “đồng thanh tương ứng” nhưng chính họ đã mặc khải cho tôi cái năng lực tự biết mình. Và từ đó, lại đến lượt tôi tự tin vào thơ tôi.

T.N.T: Quay lại câu hỏi đầu: những điều ông ngộ ra, ông đã làm được đến đâu khi đã bước vào “tuổi tri thiên mệnh”.

N.K.T: Một lần, tôi đến thăm nhà thơ Phùng Quán và được ông tiếp trên “chòi ngắm sóng”. Ở đấy, ông có treo một cây nỏ và kèm hai câu thơ. Lâu ngày, tôi chỉ còn nhớ mang máng:

Tuổi 18 đẽo thập ác làm nỏ
Tui 50 đẽo nỏ làm thập ác.

Tôi nghĩ đấy cũng là một sự ngộ. Có thể ai cũng biết cây nỏ và cây thập ác là đồng dạng nhưng chỉ những kẻ “đa đoan” như nhà thơ mới liên tưởng, mới “vận vào” như vậy. Nếu ai coi thơ là vũ khí thì thơ chính là nỏ của họ. Còn tôi, tôi lại cho rằng thơ là thập ác. Hoặc thơ là Jesus, thơ là Doxtoiepxki, thơ là cái đẹp cứu chuộc thế gian.

Tôi hiểu vậy khi “bóng câu” đã ngả sang phía heo may của tuổi lá vàng. Và đây, có lẽ cũng là chỗ chín muồi của tuổi đẽo nỏ làm thập ác.

T.N.T: Xin cám ơn!

(TCSH116/10-1998)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THANH THẢO“gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còngvề sông ăn cá về đồng ăn cua”

  • NGUYỄN KHẮC PHÊCó lẽ trong các loại tổ chức hội đoàn, tổ chức các Chi hội nhà văn (thuộc Hội Nhà văn Việt Nam) là ít họp hành nhất; trong đó Chi hội ở Thừa Thiên Huế hẳn được xếp “đầu bảng” về “thành tích” này.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNHĐêm hè từ 7 giờ tối tới 7 giờ sáng. 12 giờ liên tục nhận những cái rùng mình trong toa máy lạnh ghế mềm chuyến tầu xuyên Việt. 9 giờ sáng xuống Huế. Cơn mưa rớt bão Chanchu đã tạnh. Nắng Huế nhức đầu. Khách sạn Duy Tân. Nằm đọc Tạp chí sông Hương.

  • Gắn liền với 700 năm Thuận Hoá - Phú Xuân, 700 năm thơ Huế là tập thơ do Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật tỉnh, Hội Nhà văn TT-Huế phối hợp thực hiện và sẽ ra mắt bạn đọc trong thời gian đến. Đây sẽ là tập thơ có bề dày và cũng là tập thơ đầu tiên khái quát một chiều dài với một diễn trình lịch sử thơ ca của vùng đất TT-Huế.

  • ĐÀO ĐỨC TUẤNNhà thơ Lê Văn Ngăn sinh năm 1944 ở làng Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên Huế; hiện sống tại TP Quy Nhơn, Bình Định. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội VHNT Bình Định. Thơ in trong nhiều tuyển tập trong và ngoài nước nhưng chỉ có một tập riêng “Viết dưới bóng quê nhà” (NXB Hội Nhà văn - 2008).

  • NGỰ VIÊNLTS: Văn học trẻ Huế hiện nay như thế nào? Các tác giả trẻ đang ở đâu? Tại sao đã nhiều năm nay, không có một hội viên mới nào của Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế ở độ tuổi thậm chí U40? Đâu rồi, một sân chơi văn học vốn là niềm tự hào một thời của những cây bút trẻ Huế?... Một thực tế đầy bức xúc đã khiến những người có trách nhiệm không thể tiếp tục ngồi yên. Cuộc tọa đàm “Văn học trẻ Huế- nhìn lại và phát triển” do Tạp chí Sông Hương và Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế phối hợp tổ chức vào sáng chủ nhật 12/10 vừa qua, nói như nhà văn Tô Nhuận Vỹ, “lẽ ra phải được tổ chức từ lâu”…

  • BỬU NAM* Để tưởng nhớ Trịnh Công Sơn và Ngô Kha1. Buổi chiều nắng vàng rực trên tàn cây xanh. Hình như có một con chim nhỏ nào đó đang líu lo trong lùm cây trên cao.

  • NGUYỄN THỤY KHA1. BÁC CẢ KHOÁTNhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát sinh năm Canh Tuất 1910 - năm Tuất đầu tiên của thế kỷ XX. Bởi vậy, bác mang bản mệnh Dương Thoa Xuyên Kim (vàng trang sức).

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN thực hiệnNhạc sĩ Phạm Duy sinh trưởng ở Hà Nội (5.10.1921), một thời gian dài sinh sống ở miền Nam và nước ngoài, tác phẩm của ông gắn bó với nhiều địa phương trong cả nước. Do hoàn cảnh lịch sử, ông đã có những quan hệ đặc biệt với Huế, với vùng núi Ngự sông Hương.

  • NGÔ MINHTrên hành trình văn chương thăm thẳm, mỗi nhà văn đều có một lối khởi hành riêng. Đối với nhà văn trẻ Văn Cầm Hải, con đường đó bắt đầu từ sự lựa chọn đầy nghị lực: Anh không ăn bóng một thời đã đi qua. Câu thơ Hải viết về Apolinaire như một tuyên ngôn của mình! Quen thân Văn Cầm Hải hơn 10 năm nay, tôi thấy chàng trai trẻ này là một mẫu thanh niên hiện đại trong suy nghĩ và sáng tạo nghệ thuật, ham học hỏi, có chí tiến thủ, không bao giờ bỏ phí thời gian vào những say mê vô bổ.

  • LGT: Nhà văn, nhà báo Nguyễn Xuân Hoàng sinh ngày 30-8-1966, đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, nguyên Phó Trưởng phòng chương trình Đài PTTH TT.Huế, ủy viên thường vụ Hội Liên hiệp VHNT TT.Huế, ủy viên thường trực Hội Nhà văn TT.Huế, Trưởng ban Biên tập TCSH, Thư ký Chi hội Nhà báo TCSH đã đột ngột qua đời ngày 16 -12-2006 tại Huế. Thương tiếc anh và thể theo nguyện vọng của bạn hữu, đồng nghiệp, Sông Hương xin dành số trang đáng kể đăng điếu văn của Hội Liên hiệp VHNT cùng các bài viết viếng, tiễn đưa anh về nơi an nghỉ cuối cùng.Nguyễn Khắc Thạch - Lê Văn Phương - Lê Huỳnh Lâm - Trần Tuấn - Nguyễn Trương Khánh Thi - Hồ Thế Hà - Trần Hạ Tháp - Đào Đức Tuấn - Tỷ Em - Ngô Minh - Lãng Hiển Xuân - Phạm Thị Anh Nga - Hồ Đắc Thiếu Anh - Nguyên Quân - Đinh Thu - Nhất Lâm - Ngô Cang - Ngàn Thương - Lê Ngã Lễ

  • NGÔ MINHDịp sát Tết Đinh Hợi, thoáng thấy tôi trên đường Lê Lợi, anh Ngọc Tranh ra hiệu dừng xe rồi nhanh nhẹn mở tờ báo  Tuổi Trẻ ra, nheo nheo con mắt cười hồ hởi: “Mình làm Trò chơi mà được Trời cho, ông thấy ngon không?”. Thì ra, báo Tuổi Trẻ ra ngày 13-2-2007, tức ngày 26 Tết, đưa tin Liên hoan hài kịch Xuân 2007 của Thành phố Hồ Chí Minh vừa kết thúc tại sân khấu nhạc nước Đầm Sen, nhóm Hoàng Sơn được giải nhất với vở hài kịch ngắn Trời cho.

  • MAI VYNhạc sĩ Trần Hữu Pháp sinh ra và lớn lên trong một gia đình nho giáo nghèo tại huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Từ năm 1946, Trần Hữu Pháp thoát ly gia đình phục vụ cách mạng. Trong sáu mươi năm, anh đã gắn bó với nhiều vùng đất của Tổ quốc.

  • TRẦN ĐƯƠNGCuối năm 1973, đầu năm 1974, khi bắt đầu tiến hành tuyển chọn và dịch thơ của Tố Hữu ra tiếng Đức, tôi có gửi tới nhà thơ danh mục những bài cần dịch và xin ông cho ý kiến.

  • Sức sống của Hoàng Phủ Ngọc Tường sau cơn bạo bệnh là một niềm vui cho làng văn học Việt . Trong những ngày tháng điều trị, những trang viết của ông không vì thế “đóng cửa” mà nhiều khi lại thăng hoa vì đây là khoảng thời gian đúc kết của một chuỗi dài “ham chơi”, một thời đã từng lên rừng xuống bể, vào Nam ra Bắc với biết bao “Miền gái đẹp”... Không bao giờ dừng bước -  Đó cũng là cốt cách của nhà văn gốc Bích Khê, Quảng Trị này.

  • NGÔ MINHLTS: Giáo sư Lê Quang Vịnh, người trí thức Sài Gòn yêu nước bị toà án binh đặc biệt của Chính quyền Sài Gòn kết án tử hình năm 1962 và đày ra Côn Đảo biệt giam trong chuồng cọp, hầm đá, bị khổ sai suốt 14 năm ròng, từ năm 1962 - 1975. Cuộc đời và nhân cách, ý chí kiên cường của người tử tù nổi tiếng này là một pho truyện lạ lùng và hấp dẫn. Nhà thơ Ngô Minh vừa hoàn thành bản thảo tập ký sự “Chuyện tử tù Lê Quang Vịnh”. Chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc chương nói về những mối tình nước mắt của Lê Quang Vịnh trong thời gian hoạt động cách mạng ở Sài Gòn, trước khi bị án tử hình.

  • HOÀNG VŨ THUẬT

  • Sinh ngày 02 tháng 8 năm 1962 tại Cao Lãnh, Đồng ThápTốt nghiệp Trường Viết văn Nguyễn Du (khoá III).Hiện công tác ở Báo Tuổi Trẻ, thành phố Hồ Chí MinhHội viên Hội Nhà văn Việt NamBài “copy” sau đây là cuộc trò chuyện giữa nhà thơ Thu Nguyệt và nhà báo Diễm Chi, đăng trên báo Phụ nữ chủ nhật thành phố Hồ Chí Minh.http://thunguyetvn.com

  • NGUYỄN QUANG SÁNG“Cách đây ba năm tôi có viết về nhà văn Sơn , chớ không phải khi nghe tin anh đi xa rồi, tôi mới nghĩ đến anh. Tôi viết về anh lúc anh còn khoẻ mạnh và minh mẫn. Anh đã đọc, gật đầu, cười…”.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNLTS: Cuộc tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một cuộc tập kích chiến lược. Thắng lợi của cuộc tập kích ấy buộc Đế quốc Mỹ giữa lúc có đông quân nhất ở Việt Nam, hy vọng sẽ chiến thắng bằng quân sự phải xuống thang chiến tranh, ngồi vào bàn hoà đàm mở đầu cho thời kỳ thất bại của Mỹ dẫn đến chỗ Mỹ phải rút chạy khỏi miền Nam Việt Nam.