Triển lãm mỹ thuật đương đại 5 trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam - Thái Lan

15:18 03/06/2008
Đã trở thành truyền thống tốt đẹp từ nhiều năm nay, các trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam - Thái Lan tổ chức luân phiên 2 năm một lần Triển lãm Mỹ thuật Đương đại giữa hai nước.

Ngày 31 tháng 8 năm 2001 vừa qua, lần thứ 2 kể từ năm 1995 đến nay Triển lãm Mỹ thuật Đương đại 5 trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam - Thái Lan đã được khai mạc tại Nhà Văn hoá Hữu nghị thành phố Huế. Triển lãm còn có ý nghĩa góp phần trong các hoạt động kỷ niệm lần thứ 25 ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt và Thái Lan (1976-2001). Triển lãm lần này quy tụ 110 tác phẩm được sáng tác trong những năm gần đây của hơn 100 tác giả là hoạ sĩ, nhà điêu khắc- giảng viên của 5 trường Đại học Mỹ thuật Việt - Thái Lan. Trong đó, Trường Đại học Chiang Mai Thái Lan có 23 tác phẩm, Trường Đại học Mỹ thuật Silpakorn -Bankok  có 6 tác phẩm, Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội có 33 tác phẩm, Trường Đại học Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh có 22 tác phẩm và Trường Đại học Nghệ thuật Huế - Đơn vị đăng cai tổ chức - có 26 tác phẩm.
Triển lãm Mỹ thuật Đương đại 5 trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam - Thái Lan lần này vẫn là sự tiếp nối xu thế cởi mở đề tài và chấp nhận mọi khuynh hướng, quan niệm nghệ thuật khác nhau. Tác phẩm nghệ thuật của các hoạ sĩ - giảng viên 2 nước mang nhiều rung cảm của đời sống hiện thực và đậm chất triết lý. Cho dù được thể hiện dưới nhiều hình thức tạo hình, với nhiều thủ pháp, và nhiều lối diễn đạt, suy tưởng khác nhau nhưng qua tác phẩm của mình, các họa sỹ giảng viên hai nước vẫn gặp nhau ở sự biểu lộ khát vọng hoà bình, chứa đựng những triết lý về cuộc sống và thân phận con người, đề cao những giá trị nhân văn của thời đại. Có thể nhận thấy sự phong phú đa dạng của các phong cách, bút pháp biểu hiện và quan niệm nghệ thuật của các hoạ sĩ ở mỗi tác phẩm của từng trường đại học. Các tác phẩm của các họa sĩ - giảng viên Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội vẫn giữ được mạch nguồn cảm xúc hiện thực với cách nhìn chuẩn mực và một bút pháp vững vàng giàu tính hàn lâm. Có thể thấy rõ điều này qua các tác phẩm như “Trên nương ngô” - (Sơn mài) của Nguyễn Lương Tiểu Bạch, “Chợ quê” (Khắc gỗ) của Nguyễn Nghĩa Duyện, “Ngày mùa” (Bột màu) của Phạm Ngọc Sỹ, “Hoa Xuân” (Sơn dầu) của Phạm Học Hải, “Hoa chuối” (Khắc gỗ) của Trần Tuyết Mai... Bên cạnh đó là những sáng tác hừng hực chất cảm mới, cách nhìn hiện đại đầy lôi cuốn với một kỹ thuật vững vàng, sâu sắc ở tư duy hình tượng như “Bù nhìn” (Tổng hợp) của Lê Anh Vân, ”Người dao đỏ” (Sơn dầu) của Nguyễn Ngọc Long, ”Đỏ và xanh” (Sơn dầu) của Đỗ Minh Tâm, ”Bếp Việt nam” (Sơn dầu) của Phạm Bình Chương. Sự nối tiếp của các thế hệ họa sỹ - giảng viên thể hiện khá rõ chiến lược phát triển đào tạo của một trường mỹ thuật đàn anh và định hướng đổi mới trên cơ sở giữ vững nền tảng tri thức nghệ thuật được đúc kết, tạo dựng trong gần một thế kỷ qua. Các họa sỹ - giảng viên trường Đại học mỹ thuật thành phố Hồ chí Minh lần đầu hòa nhập trong Triển lãm mỹ thuật Đương đại của hai nước nhưng đã nhanh chóng tạo được ấn tượng riêng cho một thành phố phát triển. Với các tác phẩm như “Khỏa thân” (Sơn dầu) của Nguyễn Trung Tín, ”Tĩnh vật ”(Sơn dầu) của Nguyễn Hoàng, ”Âm nhạc và ngựa” (Tổng hợp) của Uyên Huy, “Tĩnh vật” (Sơn dầu) của Nguyễn Hoàng, “Tình cảm trai gái” (Sơn dầu) của Hoài Phi, ”Tĩnh lặng” (In đá) của Trần Văn Quân, ”Phong cảnh” (Sơn dầu) của Đặng Văn Long... đã đem lại cho người xem những cảm xúc mạnh mẽ bởi cách giải quyết các thủ pháp tạo hình đầy bản lĩnh. Điều dễ nhận thấy ở phong cách của các họa sĩ phía nam là xu hướng tả chân vừa giàu cảm xúc hiện thực lại vừa đậm chất duy lý sâu xa với sự kết hợp hài hòa giữa thủ pháp gọt tỉa từng chi tiết chọn lọc đến khắt khe đầy lý trí với sự tung hoành của một bút pháp đầy cảm hứng. Các họa sỹ - giảng viên Đại học nghệ thuật Huế dường như có một sự chuẩn bị lâu dài cho triển lãm, nên đã đem đến triển lãm nhiều phong cách thể nghiệm táo bạo. Nhiều tác phẩm đã gây được ấn tượng như “Vuông tròn” (Giấy) của Đỗ Kỳ Huy, “Lưng” (Sơn dầu) của Phạm Đại, ”Nguyện cầu” (Sơn dầu) của Hà Văn Chước, ”Nhớ biển” (Sơn dầu) của Nguyễn Duy Linh, ”Bố cục” (Sơn dầu) của Trương Bé, ”Đêm nâu” (Đồ họa) của Phan Hải Bằng, “Không gian trắng” (Lụa) của Nguyễn Thị Quang Vinh, “tiếng chuông chiều” (Sơn dầu) của Phan Thanh Bình... Đáng tiếc với tư cách là đơn vị đăng cai, trường Đại học nghệ thuật Huế chưa tận dụng được những cơ hội có thể để tạo nên một bước ngoặt mới thật sự sâu sắc trong không gian thẩm mỹ tạo hình ở Huế - nơi mà công chúng đã quen thuộc và chờ đợi, kỳ vọng nhiều hơn ở họ. Trong mảng tranh của các họa sỹ Thái Lan, sự tìm kiếm chất liệu biểu hiện và thủ pháp tạo hình mới, khuynh hướng phá vỡ ranh giới hội họa giá vẽ được nhiều họa sĩ thể nghiệm. Đặc biệt kỹ thuật được đề cao và coi trọng trong các tác phẩm như “Ranh giới” (Dệt) cúa Pitsamai Arwakulpanich, ”Đền Padao” (Sơn dầu) của Soontorn Suwanhem, ”Cuộc sống nông thôn” (Sợi thủy tinh) của Amnuay Guntain, ”Hai chân trời” (Thép không gỉ) của Wattana Wattanapun, “Thái 1” (Tổng hợp) của Songkarn Soodhom (Trường Chiang Mai) và “Mất tự do” (In đá) của Apichai Pirompat, ”Hình thể Thái ”(In nổi) của Preecha Thao Thong (Trường Sipakorn) đã để lại nhiều suy ngẫm cho người xem. Điểm gặp nhau của họa sỹ hai nước trong triển lãm lần này là sự chiếm chỗ gần như tuyệt đối của khuynh hướng hiện thực biểu hiện chứ không phải là trừu tượng hay Installation, các họa sỹ Thái lan rất quan tâm đến việc sử dụng các chất liệu trang trí dân gian của dân tộc mình để mô tả, biểu hiện, ẩn dụ về cuộc sống. Bày tỏ những nghĩ suy, trăn trở, những nỗi niềm cá nhân trong cái chung của dân tộc thời đại thực sự là một nhu cầu và khát vọng của các họa sỹ đương đại. Có lẽ vì vậy mà mỹ thuật Việt Nam và Thái Lan dường như tương đồng ở tư duy và sự tìm tòi, xử lý tạo hình, tính dân tộc được khai thác triệt để với một cách lý giải hiện đại, ẩn chìm trong từng tác phẩm là “bóng dáng truyền thống” Thái hoặc Việt trong đó. Ở mảng điêu khắc, do điều kiện không gian nên triển lãm chỉ trưng bày các tác phẩm điêu khắc vừa và nhỏ hoặc qua ảnh, vì vậy cũng chưa thể khái quát được diện mạo điêu khắc của hai nước. Ngoài một vài tác phẩm ít ỏi của Trường Đại học Mỹ thuật Hà nội bằng đồng, đá có những ấn tượng nhất định, nhìn chung mảng điêu khắc dường như chìm đi trong một không gian màu sắc muôn màu bao quanh.
 Khách quan mà nói, các tác phẩm của Việt nam có phần “lành” hơn ở tính dân tộc-hiện đại, sự tìm tòi hình thức biểu đạt tuy có phong phú, đa dạng, nhưng sự lặp lại cũng khá nhiều trong một số tác giả, tác phẩm. Một vài tác phẩm của các họa sỹ trường Sipakorn cho người xem cảm giác cẩu thả, đôi khi chỉ là một tờ báo có quét màu để rồi như một câu đố với người xem, có tác phẩm chỉ là một màu đỏ theo kiểu chủ nghĩa Duy sắc không thực cũng làm cho những dấu hỏi, băn khoăn càng đậm hơn trong người thưởng ngoạn. Tuy thế, điều rất đáng chú ý là triển lãm lần này khẳng định ý nghĩa lớn lao trong giao lưu văn hóa và trao đổi học thuật của các trường mỹ thuật Việt nam -Thái lan. Không có gì cụ thể và sinh động hơn là được nhìn thấy trực tiếp các tác phâm của hoạ sỹ hai nước trong không khí hội nhập quốc tế về nghệ thuật.
Triển lãm Mỹ thuật đương đại  5 trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam - Thái Lan năm 2001 một lần nữa góp phần nâng cao sự hiểu biết về sáng tạo mỹ thuật giữa các hoạ sĩ các trường Đại học Mỹ thuật 2 nước, thắt chặt tình đoàn kết, hữu nghị giữa Việt Nam - Thái Lan. Đây cũng là cơ hội để công chúng yêu nghệ thuật ở  Huế và các thành phố lớn của 2 nước Việt Nam - Thái Lan được thưởng ngoạn và tiếp xúc với những tác phẩm nghệ thuật mang tính đương đại của các hoạ sĩ giảng viên của 5 trường đại học Mỹ thuật Việt Nam - Thái Lan được sáng tác trong những năm gần đây. Đồng thời là một hoạt động văn hoá đáng chú ý ở thành phố Huế - thành phố di sản văn hoá thế giới.

TRẦN THANH BÌNH - PHAN THANH BÌNH
(nguồn: TCSH số 153 - 11 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN PHƯỢNG TRÚC LINH

    Nếu như nói bi kịch là một trong những suối nguồn không bao giờ vơi cạn, thì trường hợp Francis Bacon là một minh chứng thuyết phục. Hội họa của Francis Bacon đã khai thác tận cùng nỗi đau của con người.

  • VŨ HIỆP

    Nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam có thể được tính bắt đầu từ khi Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương được thành lập năm 1925, vào thời điểm mà các trào lưu nghệ thuật hiện đại đang trăm hoa đua nở ở Pháp.

  • VŨ LINH

    Thông thường, khi người phụ nữ làm nghệ thuật, họ có thiên hướng lựa chọn những kiểu dạng ngôn ngữ bình dị, gần gũi, mang tâm thức lãng mạn gắn liền với bản mệnh của thiên tính nữ.

  • HUỲNH HỮU ỦY  

    Trong quá trình hình thành nền văn hóa dân tộc, giấy dó đã góp phần trong việc phát triển học thuật và nghệ thuật. 

  • VŨ LÂM

    Thực hành nghệ thuật theo tư duy nghệ thuật hiện đại, hậu hiện đại đang là bức tranh chung của các nghệ sĩ thị giác trẻ tuổi trong những thập niên qua như: Hà Mạnh Thắng, Phạm Huy Thông, Nguyễn Huy An, Vũ Đức Toàn, Bàng Nhất Linh, Thái Nhật Minh... Nghệ thuật của họ là sự pha trộn giữa tư duy nghệ thuật phương Tây và những cảm thức văn hóa của người Việt.

  • KHẢ HÂN

    Alexander Bolotov là một họa sĩ người Ukraine, sinh ra và lớn lên tại thành phố Donetsk, Ukraine.

  • KHẢ HÂN

    Vào ngày 26/03/2018, ArtQuench Magazine (Tạp chí làm thỏa mãn cơn khát nghệ thuật, viết tắt là AQM) đã công bố Hợp tuyển nghệ thuật và nhiếp ảnh ấn bản số II, qua đó nhằm giới thiệu đến đông đảo công chúng yêu nghệ thuật một số các tác phẩm nhiếp ảnh và nghệ thuật đặc sắc nhất trên thế giới, những tác phẩm mà AQM xem như là đặc biệt độc đáo và đem lại một nguồn cảm hứng đầy ấn tượng.

  • KHẢ HÂN

    Trong khoảng những năm 1990, càng ngày hướng tiếp cận liên ngành với mục đích tiến hành diễn giải về các khía cạnh văn hóa trong sự đăng đối với sinh thái và môi trường theo một viễn tượng phê phán bắt nguồn từ bên ngoài lịch sử nghệ thuật truyền thống đã dần dần tạo được tiếng nói ngày một hoàn chỉnh hơn, đó chính là nhánh nghệ thuật phê bình sinh thái.

  • KHẢ HÂN

    Nghệ thuật quân sự là loại hình nghệ thuật quan tâm đến các vấn đề về quân sự, ngoài điều này ra phong cách và phương tiện chuyển tải chúng đều ít được quan tâm hơn so với đề tài của nó.

  • TRIỀU SƠN  

    Lần đầu tiên, một triển lãm mỹ thuật sáng tác chuyên sâu về Chủ tịch Hồ Chí Minh được trưng bày tại Huế, mang một góc nhìn đầy ắp tình cảm về Bác Hồ kính yêu.

  • BẠCH DIỆP

    Nàng vừa lạ vừa quen như bước ra từ khu vườn hoa hồng đầy ánh sáng.

  • KHẢ HÂN

    Mùa thu không chỉ là đề tài gợi hứng cho những bức tranh phong cảnh mà còn là đề tài vẫy gọi hội họa thăng hoa trên những vùng miền của tưởng tượng. Một trong số những trào lưu thể hiện được chiều hướng này là hội họa siêu thực.

  • KHẢ HÂN

    Nghệ thuật động lực là một trào lưu nghệ thuật hướng đến việc khai thác những hiệu ứng của sự chuyển động gây ra ở trong không gian.

  • NGUYỄN HÀNG TÌNH

    “Mơ mộng” cũng là một đặc tính của giống loài này, người.
    Có người quên, có người từ bỏ, có người lao vào.

  • KHẢ HÂN

    Glenn Brown, họa sĩ người Anh, sinh năm 1966, hiện đang được xem là một trong số những họa sĩ nổi tiếng của hội họa thế giới đầu thế kỷ XXI.

  • Mới đây, tại Hội Mỹ thuật TPHCM, họa sĩ Bùi Quang Lâm đã triển lãm 55 bức tranh sơn dầu với chủ đề Miền đất lạ. Những tác phẩm được vẽ trong 30 năm về những miền đất lần đầu họa sĩ đặt chân đến, nhưng đã tạo nên những cảm xúc buộc họa sĩ… phải cầm cọ. Miền đất lạ được vẽ từ miền Tây Nam bộ đến Bắc bộ và Tây Bắc.

  • Trên những con phố nhộn nhịp ở phố cổ Hà Nội, tuy chỉ có một vài cửa hàng bán tranh cổ động, nhưng lại hấp dẫn khiến không ít du khách nước ngoài ghé thăm.

  • Cuối thế kỉ XIX, khi máy ảnh phương Tây bắt đầu du nhập sang các nước châu Á, ở Nhật Bản có trào lưu chụp ảnh chân dung. Đáng chú ý, bonsai là một trong những nghệ phẩm được các tầng lớp người Nhật chọn lựa để chụp cùng nhiều nhất.

  • Sinh ra trong gia đình “Danh gia vọng tộc” về nghệ thuật, có bố là NSND Doãn Hoàng Giang lừng lẫy của sân khấu, mẹ là nữ diễn viên Nguyệt Ánh được xếp vào hàng mỹ nhân nghiêng nước, nghiêng thành của thập niên 70 nhưng Doãn Hoàng Lâm không núp dưới bóng cả.