HÀ LINH
1.
Con đường xa tắp. Chuyến đi xuất phát với lòng tin nơi đến là cuộc hành trình từ bỏ hạnh phúc con người.
Minh họa: Nhím
Những gì xảy ra phía trước ấy ta chưa biết? Đón bước chân ta qua cái khổ của đời người. Không trở lại cuộc đời từ một đứa bé thơ ngây. Tìm kiếm chính mình xác lập hiện hữu con người trong tái sinh.
2.
Bởi trong cuộc tuần hoàn đó trở lại cuộc đời ta tìm thấy ta những gì? Sự sống bơ vơ không nhà. Cái chết ngu ngơ trong chiến tranh hoặc khuất bóng trong cô đơn?
Đứng lại bên bờ cuộc đời đìu hiu ta định cho ta một cái gì? Một cách sống trong hoàn cảnh khổ đau kết nối như những mắt xích bất hạnh. Ta rong ruổi đời mình qua những đôi dép rách những bộ quần áo nhầu nát. Biểu hiện đói nghèo. Những đồng bạc lẻ và những nẻo đường vô định. Bóng tối. Những giai khúc đơn điệu đẫm trên cảm xúc ta những nốt nhạc buồn.
Dừng lại bên bờ cuộc đời ta thấy ta trong quán nhỏ. Góc phố vắng. Ly cà phê và thấy ta yêu đương trong từng hơi thở ấm. Ta nhận ra ta là gì? Em ở nơi nào đó xa cách với thương yêu. Trong cuộc hành trình đó ta bơ vơ.
Một đứa trẻ sinh ra và lớn lên tìm kiếm chính mình trong tiến hóa nhân loại và điều đó có nghĩa gì không? Sự cứu thế. Việc cứu rỗi tinh thần có trên thân phận con người. Khải thị Chân lý từ định mệnh người bị giết trên Thánh giá. Nào ai biết? Ta phiêu linh trong lầm than cuộc sống. Bóng dáng bà mẹ hiền. Những đứa trẻ ngây thơ và quê hương nơi ta không chốn dung thân.
Dừng lại bên bờ cuộc sống ta đã nghĩ ra một điều gì đó nơi hạnh phúc con người. Một ngôi nhà. Người vợ và những đứa con. Tuổi tác già nua bệnh hoạn và sự chết. Chỉ có thế thôi sao? Ta nhỏ xuống thân phận những giọt nước mắt và phiêu du trong lầm than với dấu tích người trên 2 bàn tay.
Ta hái những bông hoa cắm vào chiếc bình thủy tinh. Phiêu lãng với Hesse. Ngổn ngang với Krishnamurti để nhận ra cái tự do của con người. Tự do đầu tiên và cuối cùng. Ta trầm tư với Sartre và chuyển hóa với Nietzsche. Ta mỉm cười với cuộc đời. Em đang ở đâu trong mắt em ta là kẻ khổ đau tìm kiếm và ai đó bên trong những giáo đường đang dõi theo lời Thiêng của Chúa.
Cuộc sống lang thang. Con đường xa tắp phía trước sẽ đưa ta đến đâu? Trên đỉnh bình yên. Là Niết Bàn? Là địa ngục? Là giải thoát ra khỏi cuộc tuần hoàn ấy và sự lựa chọn của ta. Không thế ta là gì? Đắm chìm trong mê tối. Khuất bóng trong bao kiếp luân hồi trôi nổi. Ký ức tan vỡ. Ta không tìm thấy ta nữa. Cát bụi trở về cát bụi. Đìu hiu và nghĩa trang. Nào ai biết? Kẻ biết ta đã chết người nhớ ta đã quên. Không bóng quê hương. Không mẹ. Không người và em ở tận những nơi nào đó.
*
Con đường xa tắp những chuyến đi vô định. Cô đơn. Bỏ lại góc đời diễm ảo và thân phận. Hơi thở nhạt. Không hy vọng. Nguôi quên. Tiếc nuối và bản năng. Những điều ta biết đó không có nghĩa gì. Tuần hoàn luân chuyển. Khởi lên trong ta thương tích đời người và yêu dấu. Gói thuốc lá. Que diêm. Những góc phố và người quen. Quán bánh bèo. Bún giò chả và đêm khuya khoắt. Ta rong chơi trên những chiếc lá vàng. Con đường và mùa thu. Tuổi thơ trôi qua đọng trong ta cuộc tình ấm.
3.
Hành trình và Niết Bàn. Những con đường xa tắp kia ta thắp cho ta một ánh lửa soi bóng mình trong đêm tối. Ta thấy ta là gì? Kẻ cô đơn lựa chọn Niết Bàn và trần thế. Giải thoát hoặc chìm đắm trong luân chuyển của luân hồi. Ta lựa chọn cho ta lòng tin và rời bỏ yêu thương thế tục. Con đường xa tắp phía trước kia sẽ đưa ta đến đâu? Điều bâng khuâng đó rằng ta là con người một lần từ bỏ tất cả. Trên chuyến tàu kia ta là hành trình đơn độc. Trong đêm tối kia ta từ bỏ cuộc đời. Những con sóng kia nơi biển cả. Ta cô đơn. Không thế ta sẽ là gì?
Tồn tại trong hư ảo. Tồn tại chốn thiên đường hoặc lạc lõng trong bao kiếp luân hồi. Nào ai nhớ?
4.
Hư ảo và thời gian. Rớt xuống trong ta một chiếc lá. Giọt nước mắt trên những cảnh đời khốn khổ. Dừng lại bên bờ cuộc đời ta biết những gì? Cuộc sống phù du lãng quên và quy luật tuần hoàn tội lỗi. Ta từ bỏ cuộc sống hư ảo hoặc trở lại cuộc đời từ một đứa bé ngây thơ...
5.
Chuyến tàu lao nhanh vào đêm tối. Những cuộc đời nghèo. Sân ga. Con đường đến biển phía trước là tình yêu bên kia bờ đại dương. Thấy mình như đã ra khỏi cuộc đời ngắn ngủi. Cô đơn đứng lại bên bờ những chiếc lá rơi trong gió cuốn. Rơi trong ký ức. Một quê hương với những con đường thành phố. Bóng mẹ già. Những đứa trẻ chạy chơi và tiếng hát trong chiều đông. Những chiếc lá vàng. Con đường nơi tuổi thơ ta lớn lên.
Ghế đá và bờ biển. Sóng biếc và mây trời đìu hiu cho ta chút bình yên. Cuộc hành trình kia đưa ta qua thời gian và rời bỏ cơn mộng mị của đời người. Những bước chân rong ruổi tìm kiếm. Rét buốt Tây Nguyên. Đồi thông. Bờ hồ và mây trời mộng ảo. Cô đơn trong đìu hiu. Thác vắng.
Dòng sông. Những con sóng và nước cuốn trôi đưa ta về phía trước trong cuộc hành trình đơn độc. Cô đơn và hư vô. Ánh mắt. Nụ cười. Đón nhận cuộc đời trong chuỗi ngày bình thường và yên phận. Những giọt nước mắt. Nén hương và tang chế. Tiếng khóc của người thân... Đón bước chân ta một lần qua bến bờ vô hạn.
H.L
(SH322/12-15)
LÊ HUỲNH LÂMCó thể gọi xứ Huế là thành phố của những tiếng chuông. Sự khởi đầu của một ngày, một ngày mai hun hút trong tương lai cũng như một ngày tận trong nghìn trùng quá khứ. Một ngày mà âm thanh từ đại hồng chung phát ra; vang, ngân, vọng và im bặt. Người ta gọi âm thanh đó là tiếng chuông. Vậy thì, im bặt cũng là một phần của tiếng chuông.
MINH CHUYÊNCảnh làng mới Trà Tân cuối chiều mùa đông. Con suối chảy qua nước trong veo, róc rách. Phía tây con suối cách làng chừng nửa tầm mắt là rừng Sắc Rông, đủ các loại cây tầng tầng, lớp lớp. Cánh rừng đang chìm trong sương chiều. Rừng hoang vắng, huyền bí. Người ta kể sau ngày chiến tranh chấm dứt, rừng Sắc Rông càng trở nên bí ẩn. Người chỉ có vào mà không có trở ra. Vậy mà mấy tháng gần đây lại thường xuyên xuất hiện một người đàn bà ở đó.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGNgày xưa nhà mẹ nghèo hung, cơm không có ăn, khố không có mặc, suốt ngày lang thang trong rừng đào củ mài củ sắn kiếm cái cho vào bụng. Có ngày không tìm được chi, bụng đói lắc lư.
NGUYỄN KHẮC PHÊTrước ngày Huế khởi nghĩa 23/8/1945, có một sự kiện khiến cả thành phố náo nức vui mừng: đó là việc lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên đỉnh cột cờ Huế ngày 21/8 thay cho cờ quẻ ly. Người chiến sĩ được đồng chí Trần Hữu Dực trực tiếp giao nhiệm vụ quan trọng ấy là chàng thanh niên 25 tuổi Đặng Văn Việt (ĐVV).
NGUYỄN QUANG HÀTạp chí văn nghệ của 6 tỉnh Bắc miền Trung gồm: Xứ Thanh, Sông Lam, Hồng Lĩnh, Nhật Lệ, Cửa Việt, Sông Hương có một cam kết thú vị, luôn luôn trong nỗi chờ mong là mỗi năm anh chị em trong tạp chí thay nhau đăng cai luân phiên, mỗi năm gặp nhau một lần, ở thời điểm thích hợp nhất do tạp chí đăng cai tự chọn.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOTháng bảy, nồng nàn hương lúa mới trên những ruộng lúc mới vừa mùa gặt tháng 5, mùi rơm rạ kéo tôi ra khỏi thế giới của những đường phố xênh xang, đầy bụi và chật người. Tôi leo lên một tầng gác và nhìn về hướng quê tôi, hình dung đủ thứ nhưng nhớ vẫn là khói lam chiều với dáng mẹ tôi gầy cong như đòn gánh.
VĨNH NGUYÊNPhải nói tôi có ý định dông một chuyến xe máy ra Bắc đã lâu mà chưa có dịp. Nay có điều kiện để đi song tôi vẫn băn khoăn, không hiểu chuyến đi này mình sẽ gặp những ai đây? Hay là phải thở dài dọc đường xa với những cảnh đời khốn khó? Thôi thì tôi chỉ biết đi và đi.
VÕ MẠNH LẬP Ghi chépNhân vật Mười Hương nhiều người đã biết đến qua sách báo và đặc biệt là vùng đất Nam Bộ - Sài Gòn.
DƯƠNG THÀNH VŨTrong đêm mỏng yên tĩnh dịu dàng, một mình một cõi với ly rượu trắng, cùng mùi hương của hoa rộn ràng, huy hoàng phát tiết; tôi miên man nhớ tới cõi người đến- cõi người đi nơi xa chốn gần, thời gian tuyến tính lẫn thời gian phi tuyến tính.
NHẬT HOA KHANH Mười năm những mấy ngàn ngày... (Tố Hữu: Mười năm )
TRUNG SƠNĐoàn văn nghệ sĩ Thừa Thiên - Huế (TTH) lên đường “đi thực tế” một số tỉnh phía Bắc vào lúc lễ giỗ Tổ ở đền Hùng (10 tháng 3 âm lịch) vừa kết thúc. Tiền có hạn, thời gian có hạn chưa biết sẽ tới được những đâu, nhưng ai cũng “nhất trí” là phải lên Phú Thọ thăm Đền Hùng, dù lễ hội đã qua.
ALẾCHXĂNG GRINTại Luân Đôn, mùa xuân năm 1921, có hai ngài trung niên ăn mặc sang trọng dừng chân ở góc đường, nơi phố Pakađilli giao nhau với một ngõ nhỏ. Họ vừa ở một tiệm ăn đắt tiền đi ra. Ở đó, họ đã ăn tối, uống rượu vang và cùng đám nghệ sỹ của nhà hát Đriuđilenxky đùa cợt.
PHONG LÊQuê tôi là một xã nghèo ven chân núi Mồng Gà, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Từ Hà Nội, việc về thăm quê, đối với tôi không mấy khó khăn. Hồi là sinh viên thì mỗi năm hai lần, lần nghỉ hè lần nghỉ Tết. Khi đã là cán bộ, có gia đình thì mỗi năm một lần, cả nhà dắt díu về, với hai hành trình là tàu hoả từ Hà Nội vào Vinh, rồi là xe đạp từ Vinh về nhà.
NGUYỄN TRỌNG HUẤNBạn tôi là nhà thơ. Thơ ông hay, nổi tiếng, nhiều người ái mộ. Thời buổi “nhuận bút không đùa với khách thơ”, kinh tế khó khăn, gia đình ông vẻ như cũng “rất ư hoàn cảnh”.
ĐẶNG NHẬT MINHGia đình tôi ở Huế có một cái lệ: cứ vào dịp trước Tết tất cả nhà cùng nhau lên núi Ngự Bình quét dọn, làm sạch cỏ trên những nấm mộ của nhũng người thân đã khuất. Sau đó trở về nhà thờ của dòng họ, cùng nhau ăn một bữa cơm chay. Cái lệ đó người Huế gọi là Chạp. Ngày Chạp hàng năm không cố định, có thể xê dịch nhưng nhất thiết phải trước Tết và con cháu trong gia đình dù đi đâu ở đâu cũng phải về để Chạp mộ.
DƯƠNG PHƯỚC THUMùa xuân năm Đinh Mùi, 1307, tức là chỉ sau có mấy tháng kể từ ngày Công chúa Huyền Trân xuất giá qua xứ Chàm làm dâu, thì những cư dân Đại Việt đầu tiên gồm cả quan binh gia quyến của họ, đã rời khỏi vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã theo chân Hành khiển Đoàn Nhữ Hài, vượt qua ngàn dặm rừng rậm, núi cao, biển rộng đến đây cắm cây nêu trấn yểm, xác lập chủ quyền quốc gia.
NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhững ngọn gió heo may cuối cùng đã tắt. Nắng buổi sáng hanh vàng ngoài bến sông. Hàng cây trên phố Huế đã chừng như thay lá, lung linh một màu lá tơ non, mỏng như hơi thở của bầy con gái trường Hai Bà Trưng đang guồng xe đạp đến trường. Mùa xuân đã về bên kia sông. Đã về những cánh én nâu đen có đôi mắt lay láy màu than đá. Đã về những đóa hoa hoàng mai, vàng rưng rức như một lời chào ngày tao ngộ...
TÔ VĨNH HÀCon chó Giắc nhà tôi đẹp nhưng mà hư quá. Tôi hét nó nằm thì nó cứ giương mắt ra, rồi ngồi. Tôi không cho nó chạy vào nhà vì sợ nó làm bẩn cái nền nhà vừa lau thì nó đi vòng cửa sau, khi tôi ra cửa trước. Bực nhất là ngày lễ - nói chung là những ngày có việc, bất cứ ai vào nó cũng sủa rộn ràng. Tôi thì không muốn xóm giềng để ý. Vậy mà chó có biết cho tôi đâu...
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGGhi chép 1.Tôi tự đặt ra một “hạng mục” đinh cho chuyến đi thực tế sáng tác ở A Lưới lần này, và hạ quyết tâm thực hiện bằng được, đó là: phải lên được Đồi Thịt Băm!
LGT: Liên Thục Hương là một nhà văn Trung Quốc đương đại, tự ví mình là con mèo đêm co mình nằm trên nóc nhà, nhìn cuộc sống thành phố tấp nập đi qua đáy mắt. Liên Thục Hương còn ký bút danh Liên Gián, có số lượng bản thảo lên tới hơn hai triệu chữ. Năm 2003, “Bài bút ký đầy nước mắt” đã được post lên mạng và năm 2004 nó đã được dựng thành phim và bộ phim ngắn này làm tiền đề cho tác phẩm điện ảnh đoạt giải thưởng của Trung Quốc. Sông Hương xin giới thiệu câu chuyện này qua bản dịch của nữ nhà văn Trang Hạ.