Thi sĩ Hy Lạp, 1911 - 1996, giải Nobel Văn chương năm 1979. Nỗ lực chính của thơ ông là gạt khỏi tâm thức con người những bất công phi lý và bồi đắp các yếu tố thiên nhiên thông qua sức mạnh đạo đức, để đạt được sự minh triết cao nhất có thể có trong sự biểu đạt; và cuối cùng, là để đạt đến sự tiếp cận cõi huyền nhiệm của ánh sáng, những siêu hình của mặt trời mà ông là một “người sùng bái” - một kiểu thần tượng theo định nghĩa của riêng ông. Nghệ thuật của ông mang tính đồng hiện hướng đến kỹ thuật thi ca nhằm giới thiệu cấu trúc nội tâm, điều này thể hiện rất rõ trong nhiều bài thơ của ông.
Trần Phương Kỳ giới thiệu và dịch
Odysseas Elytis năm 1974 - Ảnh: wiki
ODYSSEUS ELYTIS
Ngày chói lọi, tiếng ốc đó
Ngày chói lọi, tiếng ốc đó đã tạo nên tôi
Trần trụi, rong chơi trong những chủ nhật từng ngày
Giữa tiếng chào mừng của những bờ biển
Nổi lên ngọn gió mới tinh
Lan xa trên thảm cỏ xanh thân mật
Trên đó mặt trời có thể lăn tròn cái đầu của mình
Và thắp sáng hàng bạch dương bằng những làn môi
Hàng bạch dương mà bọn hãnh tiến sẽ nhổ đi
Hẳn nơi đó chẳng còn chi ngoài những khuôn ngực trần trơ trụi
Và khác chi hơn là dòng máu bất khuất vô tư để xóa đi nỗi muộn phiền
Tìm đến xa xăm như nỗi nhớ tự do
Tôi nói về tình yêu, về sức khỏe đóa hồng, về ánh mặt trời
Mà trái tim cô đơn nôn nao tìm kiếm
Về tổ quốc Hy Lạp bước vững vàng bên biển
Về đất nước luôn cuốn tôi vào những chuyến du hành
Đến những đồi núi tuyết phơi trần rực rỡ
Tôi trao bàn tay cho lẽ phải
Cho suối nguồn trong trẻo trên đỉnh non cao
Bầu trời tôi thăm thẳm xanh êm
Những gì tôi yêu đều không ngừng sinh nở
Những gì tôi yêu luôn ở chỗ khởi đầu.
Ta không biết nữa đêm đen
Ta không biết nữa đêm đen, cái chết ẩn danh khủng khiếp
Khi đoàn tàu ngàn sao buông neo trong cảng tim ta
Ôi, sao Hôm, người canh giữ, em có thể soi sáng
Bên trời xanh heo may trên hòn đảo mơ mộng
Về ta công bố bình minh từ những bờ cao đá dựng
Khi những con mắt sinh đôi của ta giong buồm hướng theo em
Với vì sao của trái tim ta chân thật: ta không biết nữa đêm đen
Không biết nữa những tên gọi của thế giới ruồng bỏ ta
Ta đọc rõ những con sò biển những cánh lá và những vì sao
Nỗi thù ghét của ta trở thành thừa thãi trên những nẻo bầu trời
Trừ phi nó là giấc mộng nhìn ngắm lại ta
Khi ta thả bộ bên biển bất diệt trong những dòng nước mắt
Ôi! sao Hôm, dưới quầng lửa vàng óng ả của em
Ta không biết nữa đêm đen đó là đêm duy nhất.
......................................................
(Dịch Theo bản tiếng Anh của Kimon Friar, Modern European Poetry, Bantam Book, New York 1970)
(TCSH371/01-2020)
EVGHÊNI EVTUSENKÔ
Tưởng niệm Anđrây Đimitiêvich Xakharôv
LTS: Ca khúc “Thời gian đang chuyển mình” được phát hành trong album cùng tên vào năm 1964. Dylan viết ca khúc này nhằm phản ánh những sự biến đổi của thời cuộc.
Thi sĩ Christopher Merrill được giới phê bình văn chương Mỹ trân trọng, như W.S. Merwin đánh giá, là “một trong những nhà thơ tài năng, táo bạo, và thành công nhất của một thế hệ thi ca hiện đại.”
Nhà thơ Müesser Yeniay, sinh năm 1984, tại Izmir - Thổ Nhĩ Kỳ. Chị tốt nghiệp Đại học Ege môn Anh ngữ và Văn học, nhận bằng Tiến sĩ Văn học Thổ Nhĩ Kỳ tại Đại học Bilkent. Chị từng đoạt một số giải thưởng Văn học tại Thổ Nhĩ Kỳ. Thơ Müesser Yeniay đã được dịch sang nhiều thứ tiếng. Müesser Yeniay hiện là biên tập viên Tạp chí Văn học Şiirden, Thổ Nhĩ Kỳ.
Jan Skacel (1922 - 1989) là một trong số những nhà thơ chủ chốt trong văn học Séc nửa sau thế kỷ 20. Ông cũng là nhân vật có vai trò quan trọng trong đời sống văn học Tiệp Khắc với tư cách là Tổng Biên tập tạp chí Host do domu trong các năm từ 1963 đến 1969.
LTS: Khi Sông Hương gửi những dòng thơ này đến với bạn đọc thì Paris đã yên bình sau cơn ác mộng khủng bố IS. Nhân loại đang đứng bên người Pháp: “Je suis Paris! Tôi là Paris! Nhân loại là Paris!” Lá cờ nước Pháp nhung phủ hàng triệu gương mặt người. Và những bài thơ dành cho Paris đã ngân lên, đơn giản, đó là biểu tượng xứ sở nghệ thuật của thế giới, là nơi Cách mạng Pháp với Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền đã mở ra một kỷ nguyên hoàn toàn mới cho nhân loại…
Buổi sáng ngày 11 tháng 9 năm 2001, bạn làm gì?
LTS: "Maiacôpxki là lá cờ đầu của thơ ca tháng Mười. Và làm thơ ca ngợi cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, ông luôn luôn đặt ra những câu hỏi lớn về viễn cảnh của cuộc cách mạng, về tương lai của nhân loại.
LGT: Nhà thơ Charles Simic sinh vào ngày 9/5/1938 tại Nam Tư, nơi ông có một tuổi thơ đau thương trong chiến tranh thế giới thứ II. Năm 1954, ông theo gia đình di cư sang Mỹ.
JOSEPH BRODSKY
LTS: Sinh năm 1940 tại Peterbuorg. Năm 1970, ông sang định cư ở Mỹ và dạy học tại Đại học Columbia. Ông làm thơ bằng tiếng Nga và tiếng Anh. Năm 1987 ông đoạt giải Nobel văn chương.
Những bài thơ Sông Hương chọn giới thiệu được trích trong tập “Tĩnh vật và những bài thơ khác” từ bản dịch của Hoàng Ngọc Biên.
Billy Collins (sinh ngày 22/3/1941) là thi sĩ nổi tiếng ở Mỹ. Ông đã từng hai lần được bầu là Thi bá, hay còn gọi là Nhà thơ danh dự (Poet Laureate) của Hoa Kỳ, lần đầu vào năm 2001 và lần thứ hai vào năm 2003. Trong các năm từ 2004 đến 2006 ông được bầu là Thi sĩ của bang New York.
LGT: Nakahara Chuya (Trung Nguyên Trung Dã) (1907-1937) là một gương mặt chói ngời của văn học Nhật Bản cận đại dù mất ở tuổi ba mươi và chỉ kịp để lại hai thi tập “Bài ca sơn dương” (Yagi no uta) và “Bài ca ngày tháng cũ” (Arishihi no uta).
EVGHÊNHI EVTUSENKÔ
A. VÔZNHÊXENXKI
LTS: Ngày 18-2-1987, phiên họp của Ban thư ký Hội nhà văn Liên Xô đã hủy bỏ quyết định năm 1958 khai trừ nhà thơ, nhà văn Xô-viết Bôrít Pasternak ra khỏi Hội nhà văn.
Liana Margescu sinh ngày 7/5/1969 tại Campulung Muscel, ở Romania trong một thị trấn nhỏ miền núi. Vì là đứa con duy nhất nên người cha còn hơn là hình tượng một người cha đã đóng một vai trò thiết yếu trong sự trưởng thành của con gái. Một người cha dạy những giá trị đích thực của đời sống, như là tình bằng hữu, tự do, sự thật, ngay cả khi Romania nằm dưới sự kiểm soát của chế độ chuyên chế Ceausescu. Tác giả đã nhận được giải thưởng ở Italia.
Jaroslav Seifert - Frana Sramek - Miroslav Kapek - Michal Cernik
Gwendolyn Elizabeth Brooks (1917 - 2000), là nhà thơ Hoa Kỳ gốc châu Phi. Bà từng có thơ đăng tạp chí từ năm 13 tuổi. Năm 1950 bà được giải Pulitzer về thơ, và như thế là người da đen đầu tiên ở Hoa Kỳ có vinh dự này.
A.X.PUSKIN
Khúc ca về Ô leg minh quân
JEZIBELl - RM.SHANMUGAM CHETTIAR