Trang thơ Jan Skacel

09:46 28/03/2016

Jan Skacel (1922 - 1989) là một trong số những nhà thơ chủ chốt trong văn học Séc nửa sau thế kỷ 20. Ông cũng là nhân vật có vai trò quan trọng trong đời sống văn học Tiệp Khắc với tư cách là Tổng Biên tập tạp chí Host do domu trong các năm từ 1963 đến 1969.

Sau phong trào Mùa xuân Praha năm 1968, Jan Skacel nằm trong danh sách các nhà văn bị cấm xuất bản các tác phẩm của mình và mãi cho đến giữa thập niên 1980 ông mới xuất hiện trở lại trong đời sống văn học Séc. Trong số các tác phẩm mà Jan Skácel đã xuất bản có các tập thơ: Điều gì còn lại của thiên thần, Niềm hy vọng với đôi cánh gỗ dẻ, Ai uống rượu vang trong bóng tối…
Dưới đây là những bài thơ của Jan Skacel do Lương Duyên Tâm dịch từ nguyên bản tiếng Séc.



JAN SKACEL

Cầu nguyện cho nước

Ngày càng ít những nơi chốn để những người yêu thuở xưa đi lấy nước
những con hưu thỏa mãn cơn khát, những con ếch sinh tồn
những người hành hương cúi xuống vốc nước


Nước vẫn còn nhớ điều đó
nước thật đẹp
nước của tôi
nước của tôi tóc buông xõa
hãy che chở nước của tôi
xin đừng làm đui mù chiếc gương soi của trời sao
Hãy dẫn đến nước con ngựa nhỏ
hãy dẫn đến nước con ngựa đen tuyền như đêm
nước buồn đau
nước của tôi
nước của tôi tóc rối
ai đó lặn xuống tận đáy, chạm tới những ngôi sao vì một chiếc nhẫn


Nước là góa phụ buồn rầu
nước của tôi
nước tro tàn tóc xõa của tôi
nước than phiền oán trách chúng ta.



Con đường có hai hàng cây nở hoa

Trên con đường giữa hai hàng cây đang nở hoa trắng
chúng tôi nín thở.
Như tuyết trong những bông hoa
trên tán cây cao.


Những cái cây
kiêu hãnh đón chào sự sống.
Chúng gìn giữ không biết mệt mỏi
năng lực nở hoa của mình


Tôi đập vỡ ngôn từ
như đập đá trên công trường.
Vợ tôi chỉ nói:
Em muốn được sống trong cái cây này.



Hè muộn

Ngày hôm qua bay trong không khí sợi tóc bạc đầu tiên.
Ngân vang
khi từ từ rơi xuống đất
và những ngôn từ
thô nháp không khuất phục
mắc trong cổ họng tôi như xương cá.


Mùa hè của ta
mi đã hoa râm rồi sao?


Rồi ngày mai mùa thu sẽ tới
rồi cây cối sẽ bay đi
rồi chúng ta sẽ hỏi
đi về đâu và hướng tới ai.


Rồi sự lặng câm, khổ sở như lũ chuột đồng
đây đó sau lưng ta huýt sáo.


Mùa hè của ta
mi đã hoa râm rồi sao?


Lương Duyên Tâm dịch
(TCSH325/03-2016)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI KIM LAN

    KINHIN* im Frühling
    (*Das Gehen in Achsamkeit und Bewußtheit)

  • EVGHÊNI EVTUSENKÔ

    Tưởng niệm Anđrây Đimitiêvich Xakharôv

  • LTS: Ca khúc “Thời gian đang chuyển mình” được phát hành trong album cùng tên vào năm 1964. Dylan viết ca khúc này nhằm phản ánh những sự biến đổi của thời cuộc.

  • Thi sĩ Christopher Merrill được giới phê bình văn chương Mỹ trân trọng, như W.S. Merwin đánh giá, là “một trong những nhà thơ tài năng, táo bạo, và thành công nhất của một thế hệ thi ca hiện đại.”

  • Nhà thơ Müesser Yeniay, sinh năm 1984, tại Izmir - Thổ Nhĩ Kỳ. Chị tốt nghiệp Đại học Ege môn Anh ngữ và Văn học, nhận bằng Tiến sĩ Văn học Thổ Nhĩ Kỳ tại Đại học Bilkent. Chị từng đoạt một số giải thưởng Văn học tại Thổ Nhĩ Kỳ. Thơ Müesser Yeniay đã được dịch sang nhiều thứ tiếng. Müesser Yeniay hiện là biên tập viên Tạp chí Văn học Şiirden, Thổ Nhĩ Kỳ.

  • LTS: Khi Sông Hương gửi những dòng thơ này đến với bạn đọc thì Paris đã yên bình sau cơn ác mộng khủng bố IS. Nhân loại đang đứng bên người Pháp: “Je suis Paris! Tôi là Paris! Nhân loại là Paris!” Lá cờ nước Pháp nhung phủ hàng triệu gương mặt người. Và những bài thơ dành cho Paris đã ngân lên, đơn giản, đó là biểu tượng xứ sở nghệ thuật của thế giới, là nơi Cách mạng Pháp với Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền đã mở ra một kỷ nguyên hoàn toàn mới cho nhân loại…


  • Buổi sáng ngày 11 tháng 9 năm 2001, bạn làm gì?

  • LTS: "Maiacôpxki là lá cờ đầu của thơ ca tháng Mười. Và làm thơ ca ngợi cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, ông luôn luôn đặt ra những câu hỏi lớn về viễn cảnh của cuộc cách mạng, về tương lai của nhân loại.

  • LGT: Nhà thơ Charles Simic sinh vào ngày 9/5/1938 tại Nam Tư, nơi ông có một tuổi thơ đau thương trong chiến tranh thế giới thứ II. Năm 1954, ông theo gia đình di cư sang Mỹ.

  • JOSEPH BRODSKY

    LTS: Sinh năm 1940 tại Peterbuorg. Năm 1970, ông sang định cư ở Mỹ và dạy học tại Đại học Columbia. Ông làm thơ bằng tiếng Nga và tiếng Anh. Năm 1987 ông đoạt giải Nobel văn chương.
    Những bài thơ Sông Hương chọn giới thiệu được trích trong tập “Tĩnh vật và những bài thơ khác” từ bản dịch của Hoàng Ngọc Biên.

  • Billy Collins (sinh ngày 22/3/1941) là thi sĩ nổi tiếng ở Mỹ. Ông đã từng hai lần được bầu là Thi bá, hay còn gọi là Nhà thơ danh dự (Poet Laureate) của Hoa Kỳ, lần đầu vào năm 2001 và lần thứ hai vào năm 2003. Trong các năm từ 2004 đến 2006 ông được bầu là Thi sĩ của bang New York.

  • LGT: Nakahara Chuya (Trung Nguyên Trung Dã) (1907-1937) là một gương mặt chói ngời của văn học Nhật Bản cận đại dù mất ở tuổi ba mươi và chỉ kịp để lại hai thi tập “Bài ca sơn dương” (Yagi no uta) và “Bài ca ngày tháng cũ” (Arishihi no uta).


  • A. VÔZNHÊXENXKI

  • LTS: Ngày 18-2-1987, phiên họp của Ban thư ký Hội nhà văn Liên Xô đã hủy bỏ quyết định năm 1958 khai trừ nhà thơ, nhà văn Xô-viết Bôrít Pasternak ra khỏi Hội nhà văn.

  • Liana Margescu sinh ngày 7/5/1969 tại Campulung Muscel, ở Romania trong một thị trấn nhỏ miền núi. Vì là đứa con duy nhất nên người cha còn hơn là hình tượng một người cha đã đóng một vai trò thiết yếu trong sự trưởng thành của con gái. Một người cha dạy những giá trị đích thực của đời sống, như là tình bằng hữu, tự do, sự thật, ngay cả khi Romania nằm dưới sự kiểm soát của chế độ chuyên chế Ceausescu. Tác giả đã nhận được giải thưởng ở Italia.

  • Jaroslav Seifert - Frana Sramek - Miroslav Kapek - Michal Cernik

  • Gwendolyn Elizabeth Brooks (1917 - 2000), là nhà thơ Hoa Kỳ gốc châu Phi. Bà từng có thơ đăng tạp chí từ năm 13 tuổi. Năm 1950 bà được giải Pulitzer về thơ, và như thế là người da đen đầu tiên ở Hoa Kỳ có vinh dự này.

  • A.X.PUSKIN

    Khúc ca về Ô leg minh quân

  • JEZIBELl - RM.SHANMUGAM CHETTIAR