HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN
Ảnh: internet
Huế tên của nỗi nhớ
Người hỏi rằng xứ Huế bây giờ
Tôi biết làm sao quên được
Giòng sông ấy như ngọc tan thành nước
Vẫn tháng năm lưu luyến đôi bờ
Đêm thì thầm chờ hoài thôn Vỹ
Những mảnh hồn sao rơi ngẩn ngơ
Người hỏi rằng xứ Huế bây giờ
Tôi biết làm sao nói được
Đỉnh núi ấy từ muôn thuở trước
Vẫn cô đơn chờ mảnh trăng gầy
Mùa sim chín trên đồi bát ngát
Vẫn thèm ăn một chút trái hoang sơ
Người hỏi rằng xứ Huế bây giờ
Còn chờ ai trong cơn bơ vơ
Chiều Nam Giao nhớ người Bến Ngự
Thương ai một đời lỡ hẹn trong mơ
Người hỏi rằng xứ Huế bây giờ
Chiếc nón ấy có còn duyên dáng
Tà áo ấy đi qua cầu trắng
Gió xuân thì còn nhớ tóc mây
Sầu khơi đọng nhớ làn mắt ướt
Mưa kinh kỳ nhớ ai đêm nay
Nhiều khi gót mỏi đường đất lạ
Tôi muốn về thăm Huế một ngày
Muốn bỏ lại đằng sau tất cả
Về ngủ trên đồi với cỏ may
Người hỏi rằng xứ Huế bây giờ
Tôi biết thưa làm sao đây
Từng phen gió thổi vào cung lạnh
Vách quế thềm hoa cỏ mọc đầy.
Cảm đề Huyền Trân
Ôi Huyền Trân Huyền Trân
Thương hoài ngàn năm công chúa họ Trần
Có phải trong cuộc tình Ô Lý
Nàng sống với bao nỗi chết trong lòng.
Có phải ngày xưa nàng Huyền Trân
Cành quế thơm chưa luyến bụi trần
Từ lỡ duyên đầu phai tuổi mộng
Trái tim thường khóc những đêm xuân
Có phải ngày xưa Trần Khắc Chung
Một ngựa một gươm đời vẫy vùng
Ai biết tim chàng khô hết máu
Vì thương hương quế, tiếc giai nhân
Ta đốt đèn đêm nhớ sử xanh
Trắng đêm đàn lẻ nghẹn âm thanh
Muốn tìm một khúc Nam Bình mới
Phổ vào cay đắng gửi tri âm.
Ôi Huyền Trân Huyền Trân,
Thương hoài ngàn năm cô gái họ Trần
Hỡi cô gái bên đàn xõa tóc
Em có biết mối tình trúc ngọc
Ta cho nhau trong buổi muộn màng
Vẫn đẹp hoài như nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Trong cuộc tình cờ hối tiếc bâng khuâng.
Tạm biệt
Khi chia tay lần đầu
Em biết yêu là khổ
Hằng ngày đứng bên lầu
Hoa ngày thường vẫn nở
Hoa lựu như giận hờn
Đánh rơi từng ánh lửa
Chùm hoa tím bâng khuâng
Đánh rơi từng nỗi nhớ
Đóa hoa vàng lẻ loi
Nhớ cánh bướm xa xôi
Em cũng nhớ anh ơi
Gọi tên anh thầm lặng
Buổi sáng nhìn mây trắng
Hờ hững bay ngang đầu
Mây ngàn năm lẩn thẩn
Biết trôi đi về đâu
Âm thầm bên song cửa
Con nhện giăng tơ sầu
Buổi chiều nhìn nắng xế
Hoàng hôn xuống bên lầu
Ngày biến thành chiều tím
Mắt em thì thẳm sâu
Nắng xế về bên ấy
Em chỉ còn bóng đêm
Một vừng trăng thao thức
Và lá rụng bên thềm
(SH38/07&08-89)
NGÔ MINHThơ tặng tuổi 50
NHẤT LÂMBên hồ Thanh Thủy
NGUYỄN QUANG HÀTổ Quốc
NGÔ MINHThơ đề trên phiến mai non
ĐỖ VĂN KHOÁILần đầu với Thanh Hóa
Võ Quê - Thanh Tú - Nhật Hoài Phương - Liễu Thượng Văn
NGUYỄN QUANG HÀ Bút ký thơ
Minh ơi Gửi hương hồn em tôi
TRẦN HOÀNG PHỐ ĐÔNG HÀ NGUYỄN THIỀN NGHI
Sinh năm 1973, quê Đại Lộc, Quảng Nam. Hiện là giảng viên Hán Nôm, Khoa văn ĐHSP Huế.Thơ anh giàu cảm xúc, luôn bộc lộ những ưu tư, khao khát. Tất cả những gì anh viết là nỗi niềm chân thực như chính bản thân anh.
Hoa hồng
Giếng làng
Quê ở Kim Long - Huế, hiện sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh.Có nhiều thơ in báo, in tuyển tập, in chung và 2 tập riêng: Lan miền Hương Ngự (năm 2000), Biếc xanh em (năm 2004).Đã là phái đẹp, hơn nữa lại đẹp trên xứ sở “mĩ miều” vốn nổi tiếng đất kinh kì (Kim Luông có gái mĩ miều/Trẫm thương trẫm nhớ trẫm liều trẫm đi) lại còn làm thơ như chính Nàng thơ tuỳ nhiên “hiển thị”.Thơ Võ Ngọc Lan hồn nhiên mà kín đáo, dung dị mà đằm thắm... Sông Hương trân trọng giới thiệu chùm thơ mới của chị.
LTS: Trong những ngày cuối tháng 6, đầu tháng 7. 2009. Trại sáng tác VHNT Quảng Điền 2009 đã được tổ chức bên bờ biển thôn Tân Mỹ ngập tràn nắng gió. Nhiều giai điệu đã được cất lên trong âm vang sóng vỗ. Nhiều dòng thơ đã được khơi nguồn cảm hứng từ trầm tích văn hóa Tam Giang. Sông Hương xin giới thiệu một số tác phẩm đó do các văn nghệ sĩ vừa mới chuyển về.
Tên thật là Nguyễn Minh Châu, sinh năm 1947 tại Diễn Thành, Diễn Châu, Nghệ An. Hiện sống và viết tại Hà Nội.Là thương binh 2/4, từng đánh giặc và làm thơ ở các mặt trận Trị Thiên, Tây Nguyên, Nam Bộ từ năm 1966 cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.Thơ Châu Nho xuất hiện lần đầu trên văn đàn cùng thời với Hữu Thỉnh, Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật v.v...Sau một thời gian khá dài phải vừa chạy chữa vết thương ở chiến trường tái phát, vừa lo ngăn chặn “vết thương” ở thương trường có thể xảy ra, anh lại tự “cân bằng” mình với thơ.Sông Hương trân trọng giới thiệu chùm thơ của anh viết về Huế và về đời thường người thương binh trong công cuộc đổi mới.
Sinh năm: 1949Quê quán: Lệ Thuỷ, Quảng BìnhTốt nghiệp Trường Viết văn Nguyễn Du (Khoá 1)Hội viên Hội Nhà văn Việt NamUỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà Văn Việt Nam
LTS: Xưa nay, trong đời thường, vẫn có những người làm thơ một cách lặng lẽ rồi lại đem cất giấu đi cũng rất lặng lẽ. Về phương diện này, họ sống như những người mai danh ẩn tích. Hẳn bạn đọc còn nhớ, hơn chục năm trước, một cán bộ văn phòng Hội Nhà văn đã gây ngạc nhiên trên văn đàn với hiện tượng thơ Phùng Khắc Bắc từ hiệu ứng lặng lẽ ấy. Đó là khi qua đời, người ta đã phát hiện ra di cảo thơ của ông, rồi đem in, rồi được giải thưởng, rồi nó mang tên tuổi ông vào chễm chệ trong Từ điển tác gia văn học Việt Nam thế kỷ XX.Chúng tôi có ý định dành cho bạn đọc một sự ngạc nhiên mới nhưng rất đáng tiếc là người thơ lặng lẽ ở đây vẫn muốn được “bình an” và chỉ đồng ý công bố tác phẩm với bút danh Trà Mi.Cái tên rất mới với Sông Hương và cũng sẽ rất lạ với bạn đọc, nhưng thơ Trà Mi đã có giọng riêng ở đẳng cấp chuyên nghiệp tự bao giờ. Xin mời bạn đọc thử xem có đúng vậy không?
VĨNH NGUYÊNTên thật: Nguyễn Quang VinhSinh ngày 3-11-1943Quê quán: Quảng BìnhHội viên Hội Nhà văn Việt Nam
BỬU NAMINhiều khi tham thiền ta nhìn bóng ta trên váchChín con mắt linh hồn mở chín cõi xa xămLòng vọng tưởng ta thường mường tượng tới Gió xuân thì thổi rợn những đêm xanh
NGÔ MINHGió nồm Tặng Hoàng Vũ Thuật