Trang thơ Eduardas Megielaitis

10:16 06/08/2012

Eduardas Megielaitis sinh năm 1919 (đã mất 6/6/1997), Chủ tịch Hội Nhà văn  Litva (Liên Xô cũ) từ năm 1959, có tác phẩm được in từ 1934. Anh hùng lao động Liên Xô, Giải thưởng Lê-nin về văn học (năm 1961).

Nhà thơ Litva Eduardas Megielaitis - Ảnh: cand.com.vn

Ông là một trong những nhà thơ lớn nhất Liên Xô, một nhà cách tân mạnh dạn về hình thức và cách thể hiện, thường thiên về triết lý trữ tình, ở nước ta thơ của ông đã được giới thiệu rải rác trên các báo và qua tập Con người và những ngôi sao xa (Lao Động, 1983) được bạn đọc hoan nghênh. Ông không chỉ là tác giả của mấy chục tập thơ dày, mà còn của một số tập văn xuôi trữ tình và các bản dịch các tác giả cổ điển Nga ra tiếng Litva.
Lần này chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc một số bài thơ tiêu biểu của Megielaitis qua bản dịch của Thái Bá Tân.



xône

Em - ngọn lửa bốc lên từ hồ xanh,
Em khao khát muốn được thiêu anh cháy
Nhưng gió thổi, gió mùa đông lúc ấy
Đã vô tình làm em tắt; và anh

Anh chỉ giữ những gì em để lại:
Ít hoàng hôn, ít sóng biển trời chiều,
Bím tóc vàng và ánh mắt thân yêu...
Anh - hòn đá quên trên bờ hoang dại.

Em đã đi vào sóng biển êm đềm...
Bó hoa này anh hái tặng cho em,
Anh nhìn kỹ thấy hiện lên trong đó

Ít hoàng hôn và ít sợi tóc vàng
Mà lên bờ cơn sóng biển đã mang
Cho anh căng làm dây đàn đau khổ;



hạt mạch

Và lần này
Tôi bắt đầu bài thơ
Từ bình thường hạt mạch bé, đơn sơ

Đây, hạt mạch
Trên tay tôi rất nhỏ
Mà bỗng chốc thành cao to đồ sộ.

Thành quả núi
Đè rất nặng, muốn rơi
Trong tay tôi là cả một mặt trời.

Tay tôi nâng
Đại dương trong bão tố
Và trái đất của chúng ta thu nhỏ

Cái nạng đè
Rất, rất lớn trên tay,
Nên tay tôi được sưởi ấm thế này.

Đất và biển
Và mặt trời đẹp đẽ
Đã sinh ra hạt giống này nhỏ bé,

Đã sinh ra
Một vật thể giống mình
Là mặt trời, đất, biển, bình minh…

Lớn dần lên,
Hạt giống này nhỏ nhất
Có thể to bằng mặt trời , trái đất.

Nó được soi
Bằng ánh sáng cuộc đời,
Và được đưa vào quĩ đạo con người

Là trái tim
Của mặt trời bất diệt,
Hạt giống này đấu tranh cùng cái chết


THÁI BÁ TÂN dịch
(SH23/01-87)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • JEZIBELl - RM.SHANMUGAM CHETTIAR

  • L.T.S: Cùng với Blok, Mai-a-cốp-xki, Ê-xê-nhin, Pa-xter-nak... Ma-ri-na Xvê-ta-ê-va (Marina Tsvetaeva 1892 - 1941) là một trong những nhà thơ Nga - Xô Viết lớn nhất của thế kỷ XX. Đường đời của bà là con đường đầy gian truân của một trí thức phải khắc phục nhiều lầm lỗi để đến với chân lý cách mạng. Một trái tim nồng cháy tình yêu Tổ quốc, dân tộc, nhưng Xvê-ta-ê-va mất gần 20 năm sau Cách mạng Tháng Mười sống lưu vong ở nước ngoài và trở về đất nước không được bao lâu thì mất.

  • OCTAVIO PAZ

    (Nobel Văn Chương 1990)

  • Lép Ôsanhi - Vlađimia Xôkôlôp

  • LGT: Charles Simic sinh năm 1938 tại Belgrade, Nam Tư. Năm 16 tuổi ông cùng với mẹ sang Mỹ sống với người cha ở New York City. Hiện ông là giáo sư khoa tiếng Anh ở trường Đại học New Hamsphire. Thơ Simic không dễ xếp loại. Một số bài thơ của ông có khuynh hướng siêu thực, siêu hình trong khi các bài khác là những chân dung hiện thực của bạo lực và tuyệt vọng.

  • Sam Hamill - Kevin Bowen - Martha Collins - Yusef Komunyakaa - Fred Marchant - Lady  Borton - Nguyễn Bá Chung - Bruc Weil - Carolyn Forché - Larry Heinemann - George Evans

  • F.G. Lorca: Nhà thơ Tây Ban Nha, một trong những nhà thơ lớn của thế kỷ, một chiến sĩ chống phát xít đã bị kẻ thù ám hại năm 1938, khi ông vừa tròn 40 tuổi.

  • Bạn đọc chắc hãy còn nhớ vào tháng 2 năm 2011, Tạp chí Sông Hương đón nhận sự ghé thăm của đoàn Nhà văn Nga, trong đó có nhà thơ Terekhin Vadim.

  • Jean Amrouche (1906-1962), người An-giê-ri, dạy học ở Tuy-ni-di, viết báo. Có nhiều thi phẩm in ra trước 1940. Chết trước khi An-giê-ri dành được độc lập, trong khi ông vẫn là một trong những người thành tâm và quyết liệt tìm giải pháp cho vấn đề thiết cốt này.

  • Từ nhiều thế kỷ nay, chúng ta đã quen với chuyện họa thơ Đường. Còn đây là một cuộc họa thơ bằng tiếng Tây Ban Nha. Và là một cuộc họa thơ độc đáo về Bác Hồ kính yêu của chúng ta.

  • Trong một lần thăm Ang-co, tôi cùng đi với chị Khô Chan dra, một cựu sinh viên văn khoa Đại học Phnôm Pênh. Chị ở trong một gia đình trí thức công chức dưới thời Si-ha-nuc nên hầu hết những người thân đều bị Pôn Pốt sát hại.

  • L.T.S: Ma-xê-đoan (Nam Tư) là xứ sở thơ mộng của phong cảnh đẹp, của du lịch, hội hè và của thơ, là một cái nôi văn hoá cổ xưa của nhân loại, nằm trên bán đảo Ban-căng, có một cái gì gợi nên một số nét tương đồng với Huế.

  • L.T.S: “Mẹ và bom nơ-tơ-rôn” là trường ca của nhà thơ Liên Xô nổi tiếng E.Ép-tu-sen-cô. Trường ca được trao giải thưởng Nhà nước Liên Xô năm 1984. Xin trân trọng giới thiệu một đoạn trích từ trường ca.

  • Nhà thơ nữ Ana Blandiana (sinh năm 1942) hiện là một trong những cây bút tiêu biểu của văn học hiện đại Ru-ma-ni.

  • Paul Henry là một trong những nhà thơ hàng đầu xứ Wales. Được cố thi sĩ Ursula Askham Fanthorpe diễn tả như “một nhà thơ của nhà thơ”, kết hợp “cảm xúc nhạc của những con chữ với sự tưởng tượng sáng tạo không ngừng nghỉ”, ông đến với thơ qua việc viết lời ca.

  • PI-MEN PAN-TREN-CƠNhững vật dụng của lính

  • LTS: Bruce Weigl nhà thơ Mỹ từng là cựu chiến binh tham chiến tại Quảng Trị những năm 1967-1968. Là người chứng kiến những sự thật kinh hoàng trong chiến tranh Việt Nam, ông tìm đến với thơ ca như một sự cứu rỗi linh hồn. Năm 1987, Bruce Weigl lần đầu tiên trở lại Việt Nam và “Tôi không bao giờ tưởng tượng được người Việt Nam lại tiếp đãi mình ân cần như thế”.

  • PABLO NERUDATrên đỉnh Machu Picchu(*)