Trang thơ Bruce Weigl

10:19 25/01/2011
LTS: Bruce Weigl nhà thơ Mỹ từng là cựu chiến binh tham chiến tại Quảng Trị những năm 1967-1968. Là người chứng kiến những sự thật kinh hoàng trong chiến tranh Việt Nam, ông tìm đến với thơ ca như một sự cứu rỗi linh hồn. Năm 1987, Bruce Weigl lần đầu tiên trở lại Việt Nam và “Tôi không bao giờ tưởng tượng được người Việt Nam lại tiếp đãi mình ân cần như thế”.

Tập thơ và hồi ký "Sau mưa thôi nã đạn" - Ảnh: internet

Năm 1995, ông nhận bé Nguyễn Thị Hạnh làm con nuôi. Và đó là một câu chuyện rất đẹp trong cuộc đời ông.
Bruce được xem là một hiện tượng đặc biệt, một trong những gương mặt xuất sắc nhất của nền văn học đương đại Mỹ. Đến nay, ông đã là tác giả của 25 cuốn sách, Tập thơ
Bài hát bom na-pan gồm những bài thơ viết về chiến tranh Việt Nam của ông đã được đề cử cho Giải thưởng Pulitzer. Ông cũng đã nhận được nhiều giải thưởng văn chương uy tín nhưng với ông, tình cảm của bạn đọc Việt Nam dành cho thơ ông là phần thưởng cao quý nhất. Mới đây, ông vừa xuất bản tập thơ và hồi ký “Sau mưa thôi nã đạn”, song ngữ Anh - Việt (12.2010)
Ông vừa có một hành trình trở lại Việt Nam từ 10/12 đến 20/12, với người bạn đồng hành là nhà thơ Nguyễn Phan Quế Mai. Ngày 15/12, Bruce và Nguyễn Phan Quế Mai đã có một buổi gặp mặt anh em văn nghệ sỹ Huế tại Tạp chí Sông Hương. Cuộc gặp đã diễn ra rất cảm động, với nhiều bài thơ được đọc cho nhau nghe.
Sông Hương xin giới thiệu một số bài thơ do chính Bruce đọc trong hôm giao lưu ấy, qua phần chuyển ngữ của Nguyễn Phan Quế Mai.
S.H


Nhà thơ, giáo sư Bruce Weigl và nhà thơ Nguyễn Phan Quế Mai trong buổi giao lưu ở Tạp chí Sông Hương



BRUCE WEIGL



Bài hát bom Na-pan

                                                (Tặng vợ tôi)

Sau cơn bão, sau cơn mưa thôi ào ạt
chúng mình đứng ở cửa nhìn đàn ngựa thong thả trên đồi cỏ
Qua tấm rèm đen, tầm nhìn bị khoảng cách thay đổi
vì thế dường như anh thấy màn sương vó ngựa khuấy lên
khi chúng chìm dần
như những con ngựa
bị cắt rời khỏi thân thể chúng ta
Cỏ chưa bao giờ xanh màu da trời như trong ánh sáng đó
cỏ cũng chưa bao giờ tím đến thế
Đằng sau thảm cỏ, cây cối đập vụn giọng nói của chúng vào gió
Những cành cây đan chằng chịt vào bầu trời dây kẽm gai
Nhưng em nói chúng chỉ là những cành cây
Ừ, cũng được. Cơn bão đã thôi dồn dập
Anh đang cố gắng nói ra sự thật
đó là lần duy nhất lý trí tạm dừng
và lấy lại hơi thở sau những kế hoạch điên rồ của chính mình
Sau trận mưa to đó
anh đã quay lưng lại với những lời nguyền cũ
Anh tin rằng những lời nguyền cuối cùng
rồi cũng buông tha anh…

Nhưng những cành cây vẫn là dây kẽm gai
Tiếng sấm vẫn là tiếng súng cối nã đạn
Cả bây giờ cả khi nhắm mắt
Anh vẫn nhìn thấy bé gái chạy ra từ ngôi làng
bom na-pan dính chặt cô vào máu
đôi bàn tay cô với ra phía trước
nhưng không ai đón cô trong biển lửa trước mặt

Anh có thể cứ tiếp tục sống
Anh có thể cứ ở đây bên em
Nhưng trong tâm trí anh, bé gái vẫn chạy trên đường
Đôi cánh đập trong cô đến khi cô bay lên
trên cánh rừng khét lẹt
Để nỗi đau của cô vơi đi
cùng nỗi đau của em và anh
Nhưng lời nói dối lại lao trở lại
Lời nói dối chỉ có hiệu lực trong khoảnh khắc nó được thốt lên
Cô bé chỉ có thể chạy tới khi
bom na-pan cho phép cô
Đến khi ruột gan cô cháy khét
da thịt nứt nẻ tạc cô vào vị trí cuối cùng
vị trí hoàn hảo của cái chết

Cô bé bị đốt cháy sau võng mạc của anh
Không gì có thể thay đổi được điều đó
kể cả tình yêu dịu ngọt của em
cả không khí mát lành sau mưa
và cả rừng cỏ xanh đang trải trước mặt chúng ta

Không điều gì có thể chối bỏ được sự thật đó.



Lời thơ tặng Mẹ Nguyễn Thị Vẻ

                                   
Viết thay cho Nguyễn Thị Hạnh Weigl

Được sinh ra trong văn hoá lúa Hà Nam
đầu tiên là đất
thứ hai là nước
thứ ba là những ngày dài còng lưng dưới mặt trời
thứ tư là thóc giống
như cuộc đời Mẹ đã bắt đầu
dưới bầu trời vần vũ của chiến tranh

Rồi Mẹ như cây mạ
sẵn sàng cho số phận bứng lên
từ mảnh ruộng Mẹ đã được gieo
để lại được cấy xuống
trong hàng hàng những người sống sót
Mẹ vươn lên từ bùn, Mẹ vươn lên trong bão táp
Dậy thì khi lúa trổ đòng
bóng tối hậm hực muốn nhấn chìm vẻ đẹp
Mẹ vẫn rì rào xanh mướt xanh
tự do chảy qua những cánh đồng
rễ bám đất cưu mang đòng nặng hạt

Khi lúa chín, Mẹ hái gặt điều thiêng liêng nhất
của đời mình bằng tiếng hát
bằng yêu thương sâu thẳm trong tim
bằng nước mắt, tiếng cười ngày làm mẹ

Nhưng - số phận chia lìa hai ngả
Mẹ lặng lẽ gặt mình thành gốc rạ
cô liêu trên đồng trống tái màu

Giờ đây Mẹ trở về thóc giống
để chúng con cùng nâng niu, cất giữ, gieo trồng
để những hạt-gạo-Mẹ chúng con ăn vào cơ thể
lại trổ đòng
lại xanh mướt xanh.



Kỷ niệm ngày được tha thứ


Mưa và mây thấp thổi qua thung lũng
Mưa xuống bờ biển, dâng lên những con sông đen kịt
Thủy triều cao, mực nước quá cao
Sông và bầu trời đen vì chúng ta đã đến

Không tuyệt vời cũng không công bằng
tôi thức dậy từ đêm trăn trở mơ về nàng
người tôi chẳng bao giờ có nữa
cùng mỗi giây phút trôi qua
hạnh phúc mong manh rời xa
chỉ còn thoang thoảng một nụ hôn trong trí tưởng
nụ hôn ước ao về lại, hôn lên mặt tôi

Chiến tranh đã ăn ruỗng tôi
tôi không thể chạm vào ai được nữa
Ngọn gió thổi xuyên qua tôi đến nơi xanh thẳm
nơi họ vẫn ngã xuống trong biển máu
Tôi vẫn nghe tiếng họ, đêm đêm
tôi không thể trút bỏ quần áo trong ánh sáng
Tôi có thể giữ những con rồng ngoài cửa
Tôi có thể vẽ lên mặt và trốn
như cái bóng trong rừng rậm ba tầng
Tôi không thể ăn hoặc ngủ rồi đi bộ cả ngày
và cả đêm canh chừng con đường trăng sáng
Tôi có thể dứt những con vắt khỏi da mình
với đầu điếu thuốc lá
đào một cái huyệt đủ sâu tự cứu mình
trước khi mặt trời trút máu xuống những quả đồi
Cho đến khi chúng ta không thể chịu đựng được nữa
bằng chính cuộc sống chúng ta

Nhưng trong đêm đầu tiên tôi được thứ tha
Tôi không thể mở vòng tay đón nàng
Tôi không thể chạm vào ai khác
vì ý nghĩ thân thể tôi sẽ bốc cháy.

(263/01-11)







Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI KIM LAN

    KINHIN* im Frühling
    (*Das Gehen in Achsamkeit und Bewußtheit)

  • EVGHÊNI EVTUSENKÔ

    Tưởng niệm Anđrây Đimitiêvich Xakharôv

  • LTS: Ca khúc “Thời gian đang chuyển mình” được phát hành trong album cùng tên vào năm 1964. Dylan viết ca khúc này nhằm phản ánh những sự biến đổi của thời cuộc.

  • Thi sĩ Christopher Merrill được giới phê bình văn chương Mỹ trân trọng, như W.S. Merwin đánh giá, là “một trong những nhà thơ tài năng, táo bạo, và thành công nhất của một thế hệ thi ca hiện đại.”

  • Nhà thơ Müesser Yeniay, sinh năm 1984, tại Izmir - Thổ Nhĩ Kỳ. Chị tốt nghiệp Đại học Ege môn Anh ngữ và Văn học, nhận bằng Tiến sĩ Văn học Thổ Nhĩ Kỳ tại Đại học Bilkent. Chị từng đoạt một số giải thưởng Văn học tại Thổ Nhĩ Kỳ. Thơ Müesser Yeniay đã được dịch sang nhiều thứ tiếng. Müesser Yeniay hiện là biên tập viên Tạp chí Văn học Şiirden, Thổ Nhĩ Kỳ.

  • Jan Skacel (1922 - 1989) là một trong số những nhà thơ chủ chốt trong văn học Séc nửa sau thế kỷ 20. Ông cũng là nhân vật có vai trò quan trọng trong đời sống văn học Tiệp Khắc với tư cách là Tổng Biên tập tạp chí Host do domu trong các năm từ 1963 đến 1969.

  • LTS: Khi Sông Hương gửi những dòng thơ này đến với bạn đọc thì Paris đã yên bình sau cơn ác mộng khủng bố IS. Nhân loại đang đứng bên người Pháp: “Je suis Paris! Tôi là Paris! Nhân loại là Paris!” Lá cờ nước Pháp nhung phủ hàng triệu gương mặt người. Và những bài thơ dành cho Paris đã ngân lên, đơn giản, đó là biểu tượng xứ sở nghệ thuật của thế giới, là nơi Cách mạng Pháp với Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền đã mở ra một kỷ nguyên hoàn toàn mới cho nhân loại…


  • Buổi sáng ngày 11 tháng 9 năm 2001, bạn làm gì?

  • LTS: "Maiacôpxki là lá cờ đầu của thơ ca tháng Mười. Và làm thơ ca ngợi cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, ông luôn luôn đặt ra những câu hỏi lớn về viễn cảnh của cuộc cách mạng, về tương lai của nhân loại.

  • LGT: Nhà thơ Charles Simic sinh vào ngày 9/5/1938 tại Nam Tư, nơi ông có một tuổi thơ đau thương trong chiến tranh thế giới thứ II. Năm 1954, ông theo gia đình di cư sang Mỹ.

  • JOSEPH BRODSKY

    LTS: Sinh năm 1940 tại Peterbuorg. Năm 1970, ông sang định cư ở Mỹ và dạy học tại Đại học Columbia. Ông làm thơ bằng tiếng Nga và tiếng Anh. Năm 1987 ông đoạt giải Nobel văn chương.
    Những bài thơ Sông Hương chọn giới thiệu được trích trong tập “Tĩnh vật và những bài thơ khác” từ bản dịch của Hoàng Ngọc Biên.

  • Billy Collins (sinh ngày 22/3/1941) là thi sĩ nổi tiếng ở Mỹ. Ông đã từng hai lần được bầu là Thi bá, hay còn gọi là Nhà thơ danh dự (Poet Laureate) của Hoa Kỳ, lần đầu vào năm 2001 và lần thứ hai vào năm 2003. Trong các năm từ 2004 đến 2006 ông được bầu là Thi sĩ của bang New York.

  • LGT: Nakahara Chuya (Trung Nguyên Trung Dã) (1907-1937) là một gương mặt chói ngời của văn học Nhật Bản cận đại dù mất ở tuổi ba mươi và chỉ kịp để lại hai thi tập “Bài ca sơn dương” (Yagi no uta) và “Bài ca ngày tháng cũ” (Arishihi no uta).


  • A. VÔZNHÊXENXKI

  • LTS: Ngày 18-2-1987, phiên họp của Ban thư ký Hội nhà văn Liên Xô đã hủy bỏ quyết định năm 1958 khai trừ nhà thơ, nhà văn Xô-viết Bôrít Pasternak ra khỏi Hội nhà văn.

  • Liana Margescu sinh ngày 7/5/1969 tại Campulung Muscel, ở Romania trong một thị trấn nhỏ miền núi. Vì là đứa con duy nhất nên người cha còn hơn là hình tượng một người cha đã đóng một vai trò thiết yếu trong sự trưởng thành của con gái. Một người cha dạy những giá trị đích thực của đời sống, như là tình bằng hữu, tự do, sự thật, ngay cả khi Romania nằm dưới sự kiểm soát của chế độ chuyên chế Ceausescu. Tác giả đã nhận được giải thưởng ở Italia.

  • Jaroslav Seifert - Frana Sramek - Miroslav Kapek - Michal Cernik

  • Gwendolyn Elizabeth Brooks (1917 - 2000), là nhà thơ Hoa Kỳ gốc châu Phi. Bà từng có thơ đăng tạp chí từ năm 13 tuổi. Năm 1950 bà được giải Pulitzer về thơ, và như thế là người da đen đầu tiên ở Hoa Kỳ có vinh dự này.

  • A.X.PUSKIN

    Khúc ca về Ô leg minh quân