Nghe như cổ tích chuyện cậu bé Ali Ahmad Said Esber, con nhà nông dân vùng Al Qassabina, miền tây nước Syria: từ chỗ nhà nghèo, không được tới trường, sau có cơ hội đi học và đạt trình độ tiến sĩ; từ chỗ thuở nhỏ làm thơ gởi các báo nhưng không bài nào được đăng, sau lại là người sáng lập một tạp chí chuyên về thơ và trở thành “nhà thơ vĩ đại nhất còn sống của thế giới Ả Rập” với bút danh Adonis.
Gần 70 năm sáng tác, Adonis đã xuất bản nhiều tập thơ giá trị, viết bằng tiếng Ả Rập và được dịch sang nhiều thứ tiếng. Ngoài Giải thưởng Thơ ca Quốc gia Lebanon (năm 1974), Adonis còn nhận được nhiều giải thưởng cao quý của các nước Nga, Bỉ, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ, đáng kể nhất là giải thưởng mang tên văn hào Goethe của nước Đức “về toàn bộ tác phẩm” của ông. Chỉ tiếc là giải Nobel Văn học chưa lần nào xướng tên Adonis tuy đã nhiều lần được đề cử, sớm nhất là từ năm 1988.
Đối với Adonis, sứ mệnh của thơ ca trước sau vẫn là: “Thơ ca làm cho cuộc sống trên trái đất này tốt đẹp hơn, bớt phù phiếm, bớt khổ đau hơn”.
Thân Trọng Sơn giới thiệu và dịch
ADONIS
Cây sầu muộn
Lá đổ ào rồi nằm yên trong rãnh sâu chữ viết
Mang theo đóa hoa sầu muộn
Trước khi ngôn từ trở thành
Âm vang
Giao hoan trong khoảng tối đen.
Lá lạc đường xoay tròn kiếm tìm mảnh đất mê say
Hết cánh rừng này sang cánh rừng khác
Mang theo đóa hoa sầu muộn.
Những bài thơ không đề
Vào một đêm trăng tròn
Hãy thử chăm chú nhìn lên thiên hà
Bạn sẽ thấy nó là dòng sông
Với đôi tay bạn là sông nhánh
Và khuôn ngực là cửa sông.
- - -
Hôm nay bầu trời đã viết bài thơ
Bằng màu mực trắng
Và gọi tên là tuyết.
- - -
Giấc mơ của bạn trẻ lại
trong khi bạn già đi
Giấc mơ lớn lên khi tiến bước
Về phía tuổi thơ.
- - -
Giấc mơ là con ngựa
Chở ta đến chốn xa
Mà không hề dịch chuyển.
- - -
Mây lang thang hoài cũng mệt
Nó ghé xuống con sông gần nhất
Để giặt áo
Mây vừa nhúng chân xuống nước
Thì chiếc áo rã tan
Và biến mất.
Tình yêu
Con đường và mái nhà đều yêu thương tôi
Người sống và người chết
Và cái chum đất sét đỏ trong nhà
Được nước yêu thương.
Người láng giềng yêu thương tôi
Cách đồng, sân đập lúa, ngọn lửa.
Cũng yêu thương tôi là những cánh tay lam lũ
Làm cho thế giới tốt đẹp hơn
Chẳng được tưởng thưởng gì cũng hân hoan.
Và những mảnh vương rải đây đó
Bứt ra từ lồng ngực còm cõi của anh tôi
Mảnh thịt da khuất sau những gié lúa mùa gặt
Tựa như những viên hồng ngọc
Còn đỏ hơn màu máu đỏ tươi.
Thần yêu thương sinh cùng lúc tôi ra đời
Yêu thương sẽ ra sao khi tôi không còn nữa?
---------------
(Trích dịch từ Tuyển tập Thơ Adonis, bản tiếng Anh của Khaled Mattawa).
(TCSH346/12-2017)
L.T.S: Cùng với Blok, Mai-a-cốp-xki, Ê-xê-nhin, Pa-xter-nak... Ma-ri-na Xvê-ta-ê-va (Marina Tsvetaeva 1892 - 1941) là một trong những nhà thơ Nga - Xô Viết lớn nhất của thế kỷ XX. Đường đời của bà là con đường đầy gian truân của một trí thức phải khắc phục nhiều lầm lỗi để đến với chân lý cách mạng. Một trái tim nồng cháy tình yêu Tổ quốc, dân tộc, nhưng Xvê-ta-ê-va mất gần 20 năm sau Cách mạng Tháng Mười sống lưu vong ở nước ngoài và trở về đất nước không được bao lâu thì mất.
OCTAVIO PAZ
(Nobel Văn Chương 1990)
Eduardas Megielaitis sinh năm 1919 (đã mất 6/6/1997), Chủ tịch Hội Nhà văn Litva (Liên Xô cũ) từ năm 1959, có tác phẩm được in từ 1934. Anh hùng lao động Liên Xô, Giải thưởng Lê-nin về văn học (năm 1961).
Lép Ôsanhi - Vlađimia Xôkôlôp
LGT: Charles Simic sinh năm 1938 tại Belgrade, Nam Tư. Năm 16 tuổi ông cùng với mẹ sang Mỹ sống với người cha ở New York City. Hiện ông là giáo sư khoa tiếng Anh ở trường Đại học New Hamsphire. Thơ Simic không dễ xếp loại. Một số bài thơ của ông có khuynh hướng siêu thực, siêu hình trong khi các bài khác là những chân dung hiện thực của bạo lực và tuyệt vọng.
Sam Hamill - Kevin Bowen - Martha Collins - Yusef Komunyakaa - Fred Marchant - Lady Borton - Nguyễn Bá Chung - Bruc Weil - Carolyn Forché - Larry Heinemann - George Evans
F.G. Lorca: Nhà thơ Tây Ban Nha, một trong những nhà thơ lớn của thế kỷ, một chiến sĩ chống phát xít đã bị kẻ thù ám hại năm 1938, khi ông vừa tròn 40 tuổi.
Bạn đọc chắc hãy còn nhớ vào tháng 2 năm 2011, Tạp chí Sông Hương đón nhận sự ghé thăm của đoàn Nhà văn Nga, trong đó có nhà thơ Terekhin Vadim.
FREDERICK TURNER
FREDERICK FEIRSTEIN
Jean Amrouche (1906-1962), người An-giê-ri, dạy học ở Tuy-ni-di, viết báo. Có nhiều thi phẩm in ra trước 1940. Chết trước khi An-giê-ri dành được độc lập, trong khi ông vẫn là một trong những người thành tâm và quyết liệt tìm giải pháp cho vấn đề thiết cốt này.
Từ nhiều thế kỷ nay, chúng ta đã quen với chuyện họa thơ Đường. Còn đây là một cuộc họa thơ bằng tiếng Tây Ban Nha. Và là một cuộc họa thơ độc đáo về Bác Hồ kính yêu của chúng ta.
Trong một lần thăm Ang-co, tôi cùng đi với chị Khô Chan dra, một cựu sinh viên văn khoa Đại học Phnôm Pênh. Chị ở trong một gia đình trí thức công chức dưới thời Si-ha-nuc nên hầu hết những người thân đều bị Pôn Pốt sát hại.
L.T.S: Ma-xê-đoan (Nam Tư) là xứ sở thơ mộng của phong cảnh đẹp, của du lịch, hội hè và của thơ, là một cái nôi văn hoá cổ xưa của nhân loại, nằm trên bán đảo Ban-căng, có một cái gì gợi nên một số nét tương đồng với Huế.
L.T.S: “Mẹ và bom nơ-tơ-rôn” là trường ca của nhà thơ Liên Xô nổi tiếng E.Ép-tu-sen-cô. Trường ca được trao giải thưởng Nhà nước Liên Xô năm 1984. Xin trân trọng giới thiệu một đoạn trích từ trường ca.
Nhà thơ nữ Ana Blandiana (sinh năm 1942) hiện là một trong những cây bút tiêu biểu của văn học hiện đại Ru-ma-ni.
Paul Henry là một trong những nhà thơ hàng đầu xứ Wales. Được cố thi sĩ Ursula Askham Fanthorpe diễn tả như “một nhà thơ của nhà thơ”, kết hợp “cảm xúc nhạc của những con chữ với sự tưởng tượng sáng tạo không ngừng nghỉ”, ông đến với thơ qua việc viết lời ca.
PI-MEN PAN-TREN-CƠNhững vật dụng của lính
LTS: Bruce Weigl nhà thơ Mỹ từng là cựu chiến binh tham chiến tại Quảng Trị những năm 1967-1968. Là người chứng kiến những sự thật kinh hoàng trong chiến tranh Việt Nam, ông tìm đến với thơ ca như một sự cứu rỗi linh hồn. Năm 1987, Bruce Weigl lần đầu tiên trở lại Việt Nam và “Tôi không bao giờ tưởng tượng được người Việt Nam lại tiếp đãi mình ân cần như thế”.
PABLO NERUDATrên đỉnh Machu Picchu(*)