Trần Thanh Mại trong những bước đi đầu tiên của viện văn học

08:49 10/02/2009
NGUYỄN HUỆ CHI     Trần Thanh Mại (1908-1965) là một nhà văn xứ Huế, một tên tuổi trong giới nghiên cứu, phê bình và sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám. Những cuốn sách ông viết rải rác trong vòng 30 năm như Tuy Lý vương, Hàn Mạc Tử, Trông giòng sông Vị, Tú Xương con người và nhà thơ... đã từng gây được ấn tượng lúc mới ra đời và đến nay vẫn còn nhiều phần giá trị. Những phát hiện của ông về Hồ Xuân Hương, Miên Thẩm đã từng gây xôn xao một thời mà sự tiếp nối của người sau cũng chưa thể nói là đã vượt qua.

Ông là người có ngày tháng sinh và mất trùng nhau. Để kỷ niệm chẵn 40 năm ngày mất của ông (3.2.1965 – 3.2.2005), tạp chí Sông Hương số đầu xuân này xin đăng bài viết của giáo sư Nguyễn Huệ Chi, một người cộng sự gần gũi của Trần Thanh Mại trong những năm ở Viện Văn học. Một bài viết tuy hoàn thành cách đây 25 năm có lẻ nhưng xem lại vẫn là bài viết dựng lên chân thực và khá đủ các phương diện con người và học thuật của Trần Thanh Mại. Trước lúc đưa in, bài viết đã được tác giả bổ sung thật hoàn chỉnh.

Viết về Trần Thanh Mại, đối với tôi, trước tiên là để trang trải một món nợ... lòng. Ông là người trong 5 năm xế bóng của cuộc đời mình, đã tận tình dẫn dắt tôi bước chân vào làng nghiên cứu. Ông lại cũng là người đã để lại những dòng di chúc cho tôi, những dòng tâm huyết trong buổi chiều một ngày trước ngày mất, ông phải chống tay, ngồi dậy trên giường bệnh, vừa thở đứt quãng vừa nói cho Trần Tuấn Lộ - con trai ông - ghi lại. Ấy vậy mà, đã có 14 năm rồi kể từ mùa xuân năm 1965 xa xôi ấy, tôi vẫn chưa làm được gì để thực hiện những lời ông dặn. Cũng đã 14 năm rồi, trong lòng tôi cứ đinh ninh phải viết một cái gì đó, mà rồi vẫn không viết được lấy một dòng về ông.

Phải nói rằng trước khi gặp Trần Thanh Mại một thời gian lâu, vào lứa tuổi 13, 14 của tôi, tôi đã được đọc, đọc cho vui, bạ cái gì mà mình bắt gặp - một ít bài nghiên cứu, phê bình do ông viết, hoặc do người khác viết để tranh luận lại. Những bài báo này phần lớn đều viết trước Cách mạng tháng Tám. Chúng chưa để lại trong tôi một ấn tượng gì sâu sắc ngoài cái cảm tưởng thoáng qua rằng, con người này hình như có một lối viết khá bạo. Bạo, có nghĩa là thích xông xáo, tìm kiếm, song đôi khi cũng lại hơi có chút cực đoan. Vì thế, nếu như những tìm kiếm này nọ của ông làm người ta mê thích, thì những tìm kiếm kia khác của ông lại làm người ta ngạc nhiên, thậm chí bất bình. Chỉ có thế thôi! Mãi đầu năm 1953, bấy giờ tôi đã là một học sinh cấp III trung học, một cuốn Trông giòng sông Vị mới tình cờ lọt được đến tay. Cần nhắc lại là trong hoàn cảnh kháng chiến chống Pháp lúc đó của vùng tự do khu IV cũ, những cuốn sách như thế không phải là dễ tìm, và mỗi lần có một cuốn lọt vào lớp học là anh em lại chuyền nhau đọc kỳ đến người cuối cùng. Hai cuốn sách đến với chúng tôi cùng một lúc: Trông giòng sông Vị (1) của Trần Thanh Mại và Chiếc cáng xanh(2) của Lưu Trọng Lư. Hai cuốn sách thuộc hai thể loại khác xa nhau mà lại giống nhau ở khả năng hấp dẫn.

Còn nhớ đêm ấy, trong ánh đèn tù mù đặt trên một cái chõng che ngoài sân nơi nhà trọ, xung quanh là cả một vườn cau nở hoa thơm ngát, mấy anh em học sinh "pô pốt" chúng tôi đã đọc mê mải đến tận khuya. Và càng đọc thì cả một thế giới đã lùi vào dĩ vãng như lại hiện về trước mắt chúng tôi, với những chiếc cáng tre trên những trạm đường đất gồ ghề, những con người Việt cổ xưa thuần hậu, với cả những kỳ thi Hương ồn ào sĩ tử, những thầy đồ, thầy khóa buồn rầu thất thế bên cạnh những anh chàng đỗ đạt hãnh tiến, thấp thoáng xa hơn là cái bóng của những tàn quạt võng lọng của triều đình Huế nhưng lại dùng để che mát cho bọn ông Tây bà Đầm... Tính từ Cách mạng tháng Tám cho đến năm đó đã là gần 8 năm. Mới chưa đầy 8 năm mà trên mảnh đất khu IV tự do, cuộc sống mới đã làm cho tất cả mọi tập tục phiền toái xa xưa, từ cờ bạc, rượu chè, cưới xin, ma chay, tế lễ, cho đến cả những mối quan hệ đạo lý cũ kỹ giữa người và người... tưởng như đều biến sạch.

Sau này tôi mới biết đấy thực ra chỉ là cách nghĩ đơn giản của lứa tuổi còn quá trẻ. Nhưng quả tình chúng tôi đã nghĩ như thế về cái thời “măng tơ” ấy, thời mà bão tố Cải cách ruộng đất còn vần vụ ở đâu rất xa, chưa lan đến xứ Nghệ. Lớn lên cùng với cách mạng và hồn nhiên sống trong cách mạng, chúng tôi không thể nào hình dung nổi mình đã thoát ra từ khuôn mẫu nào của quá khứ, thậm chí cũng không chút bận tâm rằng quá khứ đó là tươi sáng hay nặng nề. Cứ y như là con người sinh ra trên trái đất này là đã có quyền hưởng niềm vui sống rồi. Và vì vậy tự nhiên được đánh thức bất ngờ, chúng tôi đã thật sự xúc động trước những cuốn sách của các tác giả cũ trong đó có Trần Thanh Mại, Lưu Trọng Lư. Riêng Trần Thanh Mại, tuy còn nhiều chỗ yếu trong sách, nhưng cũng đã dựng lên được một Tú Xương góc cạnh làm sao, con người biết sử dụng tiếng mẹ đẻ đến mức thần tình, bằng những tiếng thông tục đó mà tự phơi bày tất cả mọi uẩn khúc cũng như vẻ đẹp của tâm hồn. Tôi bắt đầu thấy thích những giờ cổ văn hơn, những giờ bình giảng Nhị độ mai, Kim Vân Kiều... mà trước đây, người giảng cũng như người nghe đều cảm thấy khô khan xa lạ. Tôi cũng bắt đầu thấy quý Trần Thanh Mại, thấy rằng con người này đáng được đánh giá cao hơn là những định kiến non nớt của mình, thông qua một vài bài báo cũ.

Thế rồi bẵng đi 8 năm, vào tháng 12 năm 1960, sau một năm rời Trường Tổng hợp và di chuyển loanh quanh một số nơi, tôi được nhận về Viện Văn học, vào Tổ văn học Cổ cận đại và lần đầu tiếp xúc với Trần Thanh Mại. Những kỷ niệm cũ đột nhiên sống dậy. Trước mắt tôi là một người tầm thước, trắng trẻo, khuôn mặt hết sức hồng hào. Tôi bỗng đâm ra nghi ngờ: Có phải đúng Trần Thanh Mại đây sao? Trần Thanh Mại viết báo từ ngày xửa ngày xưa, nay sao mà vẫn rắn rỏi, trẻ trung, như một nhà thể thao vậy? Trần Thanh Mại cũng nhìn tôi bằng cái nhìn dò xét: ông cười nửa miệng, nhấc cái mũ cát két trên đầu đặt xuống bàn, và nói bằng một giọng Huế pha lẫn giọng Bắc, từng lời từ tốn: "Anh về công tác ở đây là tốt. Nhưng hẳn anh cũng đã biết, làm việc ở tổ nghiên cứu này so với các tổ khác, cần những điều kiện có chút khó khăn hơn. Vì vậy, cũng phải tìm hiểu cho kỹ, để biết rõ công việc, và biết sức của mình". Ông chỉ nói vậy rồi im lặng. Và tôi hiểu đây là một im lặng chứa đầy thử thách. Tôi cũng không tiện nói gì thêm, đành gật đầu tiếp thu lời khuyên bảo. Rồi ngay từ sáng hôm sau, tôi bắt đầu được ông dẫn tới mượn tài liệu ở tổ Hán Nôm. Ông xác định chóng vánh cho tôi: “Hãy bắt đầu tìm hiểu thơ chữ Hán Cao Bá Quát. Đây là một đề tài có thể nói chưa ai phát hiện được gì mấy. Nhưng qua những gợi ý quý giá của Sơ thảo (3) thì chắc hẳn triển vọng rất nhiều”. Trước sự quyết định gọn ghẽ đó, tôi không có một chút lưỡng lự nào. Không có thì giờ để mà băn khoăn lưỡng lự. Vấn đề đối với tôi lúc này là: phải làm sao vượt qua thử thách đầu tiên mà không thất bại.

Sau ba bốn tuần lễ, tôi thu thập được ngót 150 bài thơ tiêu biểu của họ Cao. Trong số đó có những bài tuyệt hay mà tôi chưa hề thấy một ai công bố, kể cả trong chương Cao Bá Quát mà ông thân tôi đã viết ở bộ Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam và Trần Thanh Mại có ý lấy nó để khuyến khích tôi; như các bài  Tiễn bạn Nguyễn Trúc Khê đi làm Tri phủ Thường Tín cùng gửi đến bạn cũ Lê Hy Vĩnh; Nằm mộng thấy con trai; Bài ca chiếc roi mây; Thơ vịnh cái gông; Bài ca trăng thu trên sông Trà; Bài ca chiếc thuyền chiến nước Anh; Cảm xúc mới sau một ngày lập xuân; những bài thơ làm trên đường lưu đày tới Giang Lưu Ba v.v... Nhìn những xấp tài liệu tôi để lộn xộn trên bàn, nét mặt Trần Thanh Mại có phần rạng rỡ hơn trước, tuy vậy, ngày ngày ông vẫn im lặng quan sát chứ chẳng nói gì. Một buổi chiều, sau khi nghe tôi trình bày công việc, ông đề nghị cho ông xem kỹ những trang ghi chép. Và ông đã ngồi lại ở bàn tôi liền một mạch cho đến xẩm tối, không biết đến cả kẻng báo hết giờ. Tôi đi ăn cơm xong trở lại cơ quan thì ông cũng vừa đọc xong. Ông ngẩng lên, hai mắt long lanh lạ thường, bảo tôi: “Bây giờ thì tôi đã tin Cao Bá Quát đúng là một tài thơ vĩ đại. Anh cho tôi mượn tập này một vài buổi”. Dĩ nhiên là tôi rất vui lòng trao nó cho ông.

Vài hôm sau nữa, Trần Thanh Mại bỗng đem đến cho chúng tôi một bài thơ. Thì ra đó là bản dịch của ông, dịch thành thơ bài thơ dài Tiễn bạn Nguyễn Trúc Khê đi làm Tri phủ Thường Tín cùng gửi đến bạn cũ Lê Hy Vĩnh. Chúng tôi chuyền tay nhau đọc. Mỗi người đọc một lần. Rồi tôi lại đọc to lên cho cả tổ cùng nghe. Chúng tôi đồng thanh xác nhận đó là một bản dịch đạt. Riêng tôi, thú thật, không ngờ Trần Thanh Mại lại dịch hay được đến như vậy, trong khi chính ông cũng nói rõ rằng ông chỉ giỏi chữ Pháp mà biết rất ít chữ Hán. Tôi chắc ông đã cảm xúc sâu sắc lắm, đã sống đến mê mẩn cái giây phút sáng tạo cực kỳ sảng khoái của Cao Bá Quát, y như trước đấy mấy hôm, mắt ông đã sáng lên lấp lánh sau khi đọc xong mớ tài liệu của tôi. Dầu đã xa cách đến 19 năm, và dầu đã có thêm một vài bản dịch khác về bài thơ này, vần điệu có suôn sẻ hơn nhiều, cho đến nay tôi vẫn đinh ninh đây là bài thơ dịch thành công nhất. Bởi vì người dịch không còn đơn thuần làm cái việc "đẽo gọt" rất khổ công của một quá trình gọi là chuyển ngữ, mà đã đem hết tâm hồn ra để cảm thụ, để cố gắng vươn tới tầm cao của một tâm hồn (4). Khỏi phải nói sau đó một vài tháng, bài nghiên cứu về Cao Bá Quát của tôi hoàn thành, Trần Thanh Mại là người thông quá rất chóng (5). Đối với tôi, từ  sau bài viết đó, ông đã có cái cười hoàn toàn cởi mở, y như đối với các anh chị em khác trong Tổ, cái cười lấp lóa hàm răng trắng bóng, để lộ một chiếc răng khểnh rất dễ thương. Ông quả đã chấp nhận tôi vào cái gia đình Cổ cận đại của ông.

Càng gần gũi Trần Thanh Mại, tôi càng thấy ông có một sức làm việc dẻo dai lạ lùng! Là một trong những cán bộ đầu đàn trong những năm đầu của Viện Văn học, những cán bộ thuộc lớp Đặng Thai Mai, Cao Xuân Huy, Hoài Thanh, Nam Trân, Vũ Ngọc Phan, Hoàng Phê, Vũ Đức Phúc, Cao Huy Đỉnh, Nam Mộc, Hồ Tôn Trinh... mà như nhiều anh em đến nay còn nói, đã tạo nên cái không khí "sầm uất" hồi đầu của Viện, ông phải đảm nhiệm cùng một lúc rất nhiều công việc: vừa làm Tổ trưởng Tổ Cổ cận đại, vừa là Ủy viên biên tập tờ tập san Nghiên cứu văn học (từ giữa 1963 đổi thành tờ Tạp chí văn học), vừa lo đào tạo 4 anh chị em trẻ trong tổ, lại vừa giảng một phần trong lớp chuyên đề do Viện mở. Rồi còn lo góp phần biên soạn Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX (6), chủ biên Giai thoại văn học (7), viết lại cuốn Tú Xương con người và nhà thơ (8)...

Phải nói công việc ngập cổ ngập đầu. Mà điều nhận xét chung của tôi là hình như đối với lớp cán bộ đầu đàn nói trên kia, người nào cũng phải gánh trên lưng một gánh như vậy cả. Nhưng tuyệt không có lấy một lời than van. Từ trên xuống dưới cả Viện nhất trí đồng lòng, và ai nấy lao vào việc với niềm hứng khởi, say sưa khôn tả! Về phần Trần Thanh Mại, tôi không hiểu điều kiện gì đã giúp ông hoàn thành trọn vẹn mọi trọng trách được giao, nhưng sự thật là ông đã hoàn thành nó một cách không kém ung dung, chủ động, đến nỗi mỗi lần đến Viện, lại thấy ông ném lên bàn một cái gì đó, một bài báo mới, một chương bản thảo viết trọn, một bài thơ dịch, và bảo: "Các cậu đọc thử!", rồi không nói thêm câu nào nữa, ông bỏ mũ cát két xuống và ngồi lặng lẽ hàng giờ, như không bận tâm tới một việc gì. Trong khi đó thì chúng tôi chia nhau đọc, trao đổi với nhau, và nhìn nụ cười khoan thai, chờ đợi của Tổ trưởng của mình.

Nói cho đúng ra, chỉ là mang cái vẻ ngoài ung dung thế thôi, chứ kỳ thực con người Trần Thanh Mại không có lấy một lúc nào thư thái. Ông bao giờ cũng vội. Ông vội vì trước hết ông muốn chạy đua với tật bệnh. Mang trong mình một căn bệnh hiểm nghèo là bệnh cao huyết áp trầm trọng - mà nét mặt hồng hào lại chính là biểu hiện của sự trầm trọng đó - Trần Thanh Mại luôn luôn linh cảm rằng mình đang nhích bước trên những năm tháng cuối của cuộc đời. Và để chống lại cảm giác không sao đứt đi được ấy, ông ra sức làm việc gấp hai: ông viết gần như thâu đêm không biết mỏi. Không những khối lượng công việc nhiều mà về tầm vóc, những vấn đề được ông đề cập tới thường khi vẫn có một ý nghĩa tìm tòi phát hiện, có cái mới so với người đi trước. Ông là người đã lật lại câu chuyện Hồ Xuân Hương, đã công bố Lưu hương ký, đã giải quyết vấn đề Hồ Xuân Hương một cách hệ thống, bằng một loạt bài báo nghiêm chỉnh(9), nhằm từng bước rọi sáng thêm cho nhân vật gần như giai thoại này. Và nếu tính từ năm ông mất đến nay thì lịch sử nghiên cứu văn học chúng ta đã có thêm 14 năm. 14 năm, bao nhiêu bài báo về Hồ Xuân Hương mới đã được in ra, nhưng thiết tưởng, dễ đã mấy ai vượt qua cái  mốc Trần Thanh Mại? Nội một việc ông gợi ý phân loại khối lượng thơ nôm gọi là của Hồ Xuân Hương hiện còn, theo tôi, cũng đã chứng tỏ con mắt suy xét tinh tường của một nhà khoa học. Mà nào có phải chỉ có vấn đề Hồ Xuân Hương! Còn vấn đề thơ nôm Nguyễn Trãi, thơ yêu nước Nguyễn Thông, thơ văn Miên Thẩm v.v và v.v...

Hình như bất kỳ vấn đề gì ông cũng gắng tìm bằng được cái chỗ chưa ai thấy, hoặc cái chỗ có thể dựa vào đấy để đặt lại ở một tầm sâu mới. Ông vận dụng tâm sinh lý học hiện đại để thử nêu nghi vấn: không hiểu đối với một người thuộc giới nữ thì có thích tìm cảm hứng thơ ở biểu tượng bộ phận sinh dục của chính giới mình hay không. Ông cũng đi sâu vào tâm trạng Miên Thẩm để giải thích tất cả những bài thơ nói về nỗi khổ của người bán tre, người mò vàng, người kéo thuyền, người làm giấy... không phải  chỉ là do ông hoàng này đã nhìn thấy hiện thực tàn nhẫn của thời đại mình mà còn do một bức xúc ghê gớm bên trong, gắn với sự phân hóa của tầng lớp quý tộc triều Nguyễn lúc ấy, một sự phản tỉnh của một phân số những con người ưu tú trước xu thế của thời đại. Tôi lại nhớ đến những cuốn sách cũ của Trần Thanh Mại mà trước kia chưa kịp đọc, về sau đã vào Thư viện Quốc gia để đọc bổ sung, thời kỳ đang là sinh viên. Cuốn nào cũng có một sức lôi cuốn ở cái cách đề xuất vấn đề sắc sảo của ông. Chẳng hạn cuốn Tuy Lý vương (10) là cả một tập tư liệu rất quý, phối hợp uyển chuyển giữa thực sử và dã sử, qua đấy dựng nên bộ mặt hung hiểm của cả một thời đại với liên tiếp những màn kịch chết chóc đẫm máu mà Trần Thanh Mại đã cố gắng nhìn bằng con mắt khách quan, gần với sự thật nhất, đã xem xét thể tất đủ các mặt, đối với “kẻ chạy đi” cũng như “người chạy lại”, đối với “kẻ độc tài” cũng như nhà thi sĩ vốn “hèn nhát và yếu đuối”. Hay cuốn Hàn Mạc Tử (11), tuy có những từ hơi đao to búa lớn, nhưng quả là một dự cảm đúng đắn và cũng là dự báo sớm hơn ai hết đối với chân giá trị của một thiên tài. Con người luôn luôn biết khám phá trong Trần Thanh Mại, ở hai giai đoạn trước và sau Cách mạng tháng Tám, rõ ràng vẫn chỉ là một mà thôi.

Tất nhiên là trong sự xông xáo tìm tòi không mỏi, đôi khi nhà học giả có bạo quá đi! Có cực đoan một chút! Và đây là nhược điểm vô hình trung cũng đã xuyên suốt con người Trần Thanh Mại, từ hiện tại cho đến quá khứ. Cực đoan một chút nên một vài lần có bị phản ứng, hoặc dễ rơi vào một vài sai sót tình cờ. Nhưng không hiểu sao tôi vẫn cứ tin rằng, với Trần Thanh Mại, tuy có sai lầm váp váp chút ít đấy, vẫn không phải là những sai lầm do cố ý mà ra, nên cũng chẳng có gì đọng lâu trong tư tưởng. Mà bản chất anh trí thức thì ai mà chẳng cực đoan ít nhiều trong sáng tạo. Không cực đoan, nghĩ ngợi thật tròn trĩnh, biết che chắn rào trước đón sau và nói những lời lấp lửng, thì đã là chính trị gia sành sỏi chứ chẳng phải là trí thức thứ thiệt rồi.

Trần Thanh Mại chính là người chân thành trong mọi ý nghĩ. Ông nghĩ sao làm vậy. Và vì chân thành, nên ông không cố chấp, có sai và biết sai là sửa, mà sửa cũng thoải mái nhẹ nhàng! Cũng phải nói sự thống nhất của Viện Văn học trong những năm đó, dưới sự lãnh đạo của Đặng Thai Mai và Hoài Thanh, là điều kiện để mỗi thành viên trong Viện có bước tiến nhanh hơn trong học thuật cũng như trong phương pháp tư duy của mình. Còn nhớ khoảng đầu năm 1963, khi trình bày trước lớp chuyên đề của Viện về Nguyễn Đình Chiểu, Trần Thanh Mại có so sánh hơi chi li sự khác nhau về trình độ ngôn ngữ giữa Nguyễn Đình Chiểu và Nguyễn Du. Buổi thuyết trình của ông rất đặc sắc nhưng không vừa ý tất cả người nghe. Thế là bỗng nẩy sinh vấn đề. Sóng gió bỗng đâu nổi lên trong khối người dự thính, những cán bộ tuyên, văn, giáo, huấn ở các cơ quan trung ương lúc ấy. Biết rằng nhà nghiên cứu không phải cố tình đánh giá thấp toàn diện Đồ Chiểu mà chỉ đi sâu vào một khía cạnh nào, nhà phê bình Hoài Thanh - người từng có kinh nghiệm chua cay trong quá khứ khi một lần nào đó đã ví việc Nguyệt Nga nhảy xuống sông tự vẫn như một vận đông viên nhảy trên sân vận động - rất thông cảm với Trần Thanh Mại, đã tạo điều kiện để ông hoàn thành khẩn trương bài Nguyễn Đình Chiểu, lá cờ đầu của dòng văn học yêu nước thời kỳ cận đại. Bài viết này được công bố ngay trên tạp chí 12, và được bạn đọc thích thú, về sau một nhà xuất bản in lại dưới dạng một cuốn sách mỏng với số lượng lớn đến ngạc nhiên(13).                   

Nhưng Trần Thanh Mại dễ dàng nhận sai lầm khi ông có sai lầm thật sự, còn khi ông đúng mà người khác không đúng, thì ông lại cũng biết dũng cảm bênh vực ý kiến của mình. Trong số những đề tài ông nghiên cứu thì Miên Thẩm là một đề tài ông tự nguyện làm thêm. Ông nói với tôi: "Đây cũng là do gợi ý của Sơ thảo, vì cũng là lần đầu tiên, Sơ thảo đã dám đề cập đến Miên Thẩm - dù chỉ có mấy dòng - như một tiếng kêu uất ức của thế kỷ XIX" (14). Ông muốn qua Miên Thẩm góp chút tình cảm cho quê hương yêu dấu, và trong công việc đó, tài liệu ông tích lũy cũng đã được khá nhiều. Khổ nỗi, Miên Thẩm là một nhà thơ hoàng phái. Nguồn gốc xuất thân đó có làm e ngại một số người. Trần Thanh Mại không phải không biết sự e ngại kia là có cái lý của nó, bắt nguồn từ “hòn đá tảng” quan điểm giai cấp mà ai cũng không được vi phạm, một cá nhân như mình đâu có thể chuyển lay. Nhưng vì đã nắm vững tư liệu, ông vẫn khẳng định Miên Thẩm thủy chung là người khả thủ, là một nhà thơ có giá trị. Và ông cứ theo đuổi công việc của mình. Ông dồn tâm sức để soi sáng Miên Thẩm, để đối chiếu nhằm khu biệt cho được mảng ngôn từ nghệ thuật giàu sức sống và có ý nghĩa cách tân của Miên Thẩm với những lớp ngôn từ vốn đã sáo mòn của các nhà thơ quý tộc cùng thời đại, và để đặt toàn bộ những áng thơ tố cáo, phê phán trực diện và thâm thúy của Miên Thẩm trong bối cảnh phức tạp những năm giữa và cuối thế kỷ XIX, với tiếng súng xâm lăng của chủ nghĩa thực dân...

Về phương diện này, Thư ký tòa soạn Hoài Thanh cũng đã giúp Trần Thanh Mại công bố được một chút đỉnh nào (15). Song le, cũng phải nhận rằng, trọng tâm công tác đấu tranh chính trị những năm 63, 64, 65 không cho phép một tờ báo “nằm trong cơ chế” như tờ Tạp chí Văn học làm nhiều hơn nữa. Số lớn độc giả của tờ báo lúc bấy giờ là nhà giáo, là giới cán bộ tuyên truyền các cấp từ tỉnh đến trung ương, đang gắn nhịp đập của trái tim mình vào cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, và họ đòi hỏi ở Tạp chí Văn học những đề tài gần gũi và thiết thực với họ hơn là câu chuyện của một ông hoàng. Trong hoàn cảnh đó, Trần Thanh Mại đành phải chấp nhận thực tế. Nhưng ông vẫn không bỏ cuộc. Ông càng thu thập tài liệu tích cực hơn, những mong rồi một dịp thuận tiện nào đó trong tương lai sẽ đến... Thì có ai ngờ, ông lại đã phải đột ngột từ biệt vĩnh viễn mọi dự kiến của mình vào cái tết năm 1965! Một trong những điều ông căn dặn lại anh em, là hãy tiếp tục nghiên cứu Miên Thẩm, hoặc ủng hộ những ai đi vào Miên Thẩm. Từ bấy đến nay tôi cứ để ý dò tìm mãi. Có ai đó trên đất nước chúng ta đang âm thầm làm cái việc vốn dĩ đã là niềm mơ ước của Trần Thanh Mại hay không? Mãi đầu năm 1977, nhân đi công tác vào Bình Trị Thiên, chúng tôi được nhạc sĩ Trần Hoàn, Trưởng Ty Văn hóa, cho biết rằng: di sản văn học cổ của Bình Trị Thiên đang được chú ý đẩy mạnh khai thác. Một trong những nhân vật được chú ý trước tiên là Miên Thẩm. Tôi khôn xiết bùi ngùi! Tấm lòng chi chút của Trần Thanh Mại đối với quê hương xưa kia nay đã được quê hương đáp lại rồi. Thì ra ông vẫn tìm được tri âm tri kỷ (16).

Tôi cần phải nói thêm một kỷ niệm cuối cùng về người Tổ trưởng cũ của tôi. Đó là kỷ niệm về cuộc đấu tranh giai dẳng của ông với bệnh tật. Bệnh ông mỗi ngày một tăng đến độ dễ sợ. Vào mấy năm cuối cùng, Viện Văn học đã giải phóng cho ông khỏi các việc sự vụ, bằng cách cử thêm một Tổ phó, là anh Nguyễn Văn Hoàn mới từ Trường Đại học Sư phạm Hà Nội chuyển về. Nhưng ông vẫn không chịu ở nhà. Trái lại, ông vẫn tham gia đều các sinh hoạt của Tổ và Viện. Theo ông, chính trong những sinh hoạt phong phú này mới có thể nảy ra sự sáng tạo. Vào khoảng tháng 5 năm 1962, Viện tổ chức một chuyến viếng thăm Côn Sơn, nơi ẩn cư của Nguyễn Trãi, để chuẩn bị cho lễ kỷ niệm 525 năm ngày mất Nguyễn Trãi vào tháng 9 sắp tới. Trần Thanh Mại nhất quyết cùng đi. Dọc đường, cơn bệnh hành hạ ông và lên đến Côn Sơn thì ông mệt nặng. Mặc dù vậy, ông vẫn cùng chúng tôi đi thăm chùa Hun, thăm rừng trúc và Thạch Bàn, nơi Nguyễn Trãi từng ngồi câu cá. Trong khi chúng tôi nhảy xuống suối tắm thì Trần Thanh Mại mặt đỏ gay, lê bước khó khăn trong rừng. Chiều đến, trên con đường đất đỏ khá dài dẫn xuống núi để ra chỗ đỗ ô tô, tôi tình cờ đi gần Trần Thanh Mại. Ông bước đăm chiêu, chậm rãi. Tôi tưởng ông rất mệt. Nhưng bỗng ông gọi tôi và nói: "Huệ Chi này. Tôi nghĩ ra rồi”. Tôi đang ngạc nhiên thì ông nói tiếp liền theo: "Đúng là trong hoàn cảnh vắng vẻ, u tịch của Côn Sơn, ta mới hiểu được bài thơ nôm Tích cảnh, số X, trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Bài đó không phải là "ngôn chí", cũng không phải "tiếc cảnh" hay khuyên răn đạo đức chi hết thảy. Đó chỉ là bài thơ da diết nhớ vợ mà thôi. Nhớ Nguyễn Thị Lộ đấy mà". Tôi sững người! Đọc lại bài thơ, tôi thấy quả nhiên như vậy:
                      Loàn đơn ướm hỏi khách lầu hồng,
                      Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng!
                      Ngoài ấy dù còn áo lẻ,
                      Cả lòng, mượn đắp, lấy hơi cùng.

Nếu ta thay một vài từ cổ bằng những từ thông dụng tương đương (loàn đơn/mạo muội; cả lòng/rộng lòng) thì bài thơ của Ức Trai hoàn toàn trở thành một bài thơ tình hiện đại, một bài thơ tình mà nỗi nhớ nhung còn táo bạo hơn cả nỗi nhớ nhung của người vợ trẻ trong bài Lá thư thành phố (17) của Giang Nam (cần lưu ý bạn đọc là trong thời gian làm bài thơ tình như Trần Thanh Mại giả định này, Nguyễn Trãi chủ yếu ở Côn Sơn còn Nguyễn Thị Lộ thì đang nhận chức Lễ nghi nữ học sĩ ở Thăng Long. Ngoài ấy là ngoài Kinh thành). Tôi đã thử đem bài thơ này trình bày ở một vài lớp học, lứa tuổi khác nhau, thì nói chung, không ai nghi ngờ gì về chủ đề “nhớ vợ” của nó. Chỉ có điều, hôm nay tôi phải nói ra đây cho sòng phẳng: đó chính là sự lý giải bằng phương pháp liên tưởng của Trần Thanh Mại và chỉ là của Trần Thanh Mại. Đó là kết quả bất ngờ của một chuyến đi thực tế, đúng hơn là một cuộc chống chọi với bệnh tật trên đường đi thực tế, thầm lặng mà cũng rất can trường.

Trần Thanh Mại cứ chống chọi với bệnh tật kiên nhẫn như thế cho đến cuối năm 1964 thì đành phải vào bệnh viện sau một cơn đau kịch liệt kéo dài. Không như các lần trước, vào bệnh viện nhiều lắm là một tháng lại thấy ông trở ra, lần này ông nằm liệt. Các bác sĩ bắt ông phải ở phòng cấp cứu và ông không tài nào gắng gượng để ra khỏi phòng cấp cứu được nữa. Một buổi chiều, 3 ngày trước tết âm lịch, chúng tôi vào thăm, thấy ông đang mổ thận. Mổ ngay tại phòng cấp cứu, không thuốc mê vì bệnh ông không dùng thuốc mê được. Khuôn mặt ông trắng nhợt, nghiến răng để nhịn đau, mồ hôi từng giọt ròng ròng. Phía dưới, các thầy thuốc đang bận rộn dò tìm cái gì, phủ trên bụng là một tấm khăn trắng lấm tấm đỏ. Bên kia giường, một người bưng mặt khóc: bà Trần Thanh Mại. Chúng tôi không chịu đựng nổi khi nhìn sự chịu đựng của ông, đành bỏ ra về. Mấy hôm sau, đúng đêm mồng một tết thì ông qua đời!

Trong buổi chiều đưa ông xuống nghĩa trang Văn Điển, trời lất phất mưa, tôi thẫn thờ đi sau quan tài ông, cứ ngẫm nghĩ về đời người sao mà quá ngắn. Khi mọi người đã ra về gần hết, tôi còn đứng nán lại, thì bỗng thấy người con trai cả của ông, anh Trần Tuấn Lộ, đi lại sát bên mình, trao cho một tờ giấy gấp tư mà không nói năng gì. Hơi ngạc nhiên, tôi vội mở ra, thì đó là lời trăng trối của Trần Thanh Mại vào phút lâm chung, do Trần Tuấn Lộ ghi lại bằng bút chì, nét chữ mờ và hơi nguệch ngoạc. Chỉ có mấy câu vắn tắt: “Trao cho Huệ Chi tất cả tư liệu về Hồ xuân Hương và Miên Thẩm. Mong Huệ Chi cố gắng đi sâu vào hai văn nhân tầm cỡ này”. Tôi rơm rớm nước mắt, đứng lặng hồi lâu, bồi hồi trước niềm tin và cũng là vinh dự quá lớn ông đã dành cho tôi. Hai cặp tài liệu về hai nhà thơ lớn mà ông trao cho qua anh Trần Tuấn Lộ mấy hôm sau. Trong đó có tập thơ chữ nôm Lưu hương ký đã được sao ra thành 5 bản và phiên âm ra tiếng Việt trọn vẹn, cùng một số chương khảo luận về Miên Thẩm ông viết xong từ lâu nhưng chưa được công bố, tôi đã giữ rất kỹ, đã đọc đi đọc lại nhiều lần và mang theo bên mình khi cơ quan đi sơ tán vào ngày Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc. Cho đến năm 1967 thì ông HTN đại diện Chi bộ Viện Văn học và Phòng Tư liệu Viện Văn học, đến tận nơi tôi ở yêu cầu trao lại tất cả cho cơ quan, theo một nghị quyết của Chi bộ Viện mới đưa ra. Tôi nghe ông tuyên bố, hơi chưng hửng, đứng bần thần một lúc lâu, nhưng rồi cũng lặng lẽ bắc thang lên chạn nhà chủ lôi hai chiếc cặp trao lại cho ông. Hai chiếc cặp rời khỏi tay tôi và về sau cũng... biến mất khỏi Viện, không còn chút tăm hơi nào (?!)(18). Từ đó đến nay, mỗi lần nghĩ đến Trần Thanh Mại tôi lại thấy bâng khuâng, lòng hơi se thắt, cứ có cảm giác ân hận về những gì mình đã không làm được như lời căn dặn thiêng liêng của người thủ trưởng bậc thầy gần gũi của mình.

Nhìn những bước lớn lên của Viện Văn học 20 năm nay, nhớ đến những người đã nằm xuống, những Hà Văn Đại, Trần Thanh Mại, Nam Trân, Nguyễn Đức Vân, Cao Huy Đỉnh, Hoàng Ngọc Phách, cả những anh em trẻ như Tiên Sơn Nguyễn Đức Vĩ, tôi lại cứ không thôi nghĩ đến câu nói của Jôliô Quyri (Jolio Curi) được nhắc lại trong một bài báo của Êrenbua: "Khoa học vừa tiến lên không ngừng vừa gạt bỏ chính mình" (19). Những thế hệ các nhà nghiên cứu đã nằm xuống kia chính là những người đã từng đóng góp vào bước đi đầu của Viện, đã vun đắp cho sự lớn lên hôm nay của Viện. Phát hiện và tìm tòi của họ, đáng khâm phục biết bao, cũng khó khăn và trầy trật xiết bao! Có thể rồi đây, những gì họ đã tìm ra lại sẽ bị gạt bỏ, hoặc được nhìn nhận khác đi. Nhưng dù thế chăng nữa thì việc họ làm phải đâu là vô ích. Phủ định lại cũng chính là một hình thức khẳng định. Có hiểu vấn đề biện chứng như vậy thì mới thanh thản, nhẹ nhàng trước cái quy luật tất nhiên của sự tiếp nối, và cũng mới tìm ra lý do tồn tại của chính mình, đúng như đoạn tiếp câu nói của Jôliô Quyri: "Không phải bàn cãi gì nữa, kiệt tác trong nghệ thuật vững chắc hơn tác phẩm khoa học. Nhưng tôi tin chắc rằng nhà nghệ sĩ cũng như nhà bác học đều cùng chịu sự chi phối của những động cơ như nhau, và người ta đòi hỏi họ cùng chung tư tưởng và hành động. Sáng tạo khoa học, khi nó đạt đến đỉnh cao thì cũng là sự vỗ cánh tung bay. Có nghĩa là nhà nghệ sĩ và nhà khoa học gặp nhau để tạo nên cái đẹp và hạnh phúc trong những hình thức khác nhau. Không có những cái đó thì cuộc sống chỉ là một dãy cử động tẻ ngắt...”
 Viết xong tháng 12-1978,  sửa chữa và bổ sung tháng 12 -2004
N.H.C

(nguồn: TCSH số 192 - 02 - 2005)

 

----------------------------
1. Do Trần Thanh Địch xuất bản, Huế, 1935.
2. Nxb. Tân Dân, Hà Nội, 1941.
3. Tức Sơ thảo lịch sử văn học việt Nam tập V của Ban Văn sử địa, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1960. Đây là cuốn sách đầu tiên phát hiện ra giá trị của phần thơ chữ Hán của Cao Bá Quát, và đặt lại rõ ràng: Cao Bá Quát trước hết là nhà thơ chữ Hán bất hủ. Phần viết này do Nguyễn Đổng Chi, thân phụ tôi lúc bấy giờ công tác ở Ban Văn sử địa, chấp bút.
4. Bài này đã đăng trong phần “Phụ lục” cuốn Mấy vấn đề về
sự nghiệp và thơ văn Nguyễn Trãi do tác giả bài viết này biên soạn; Nxb. Khoa học, Hà Nội, 1963.
5. Đã đăng Nghiên cứu văn học, số 6-1961.
6. Của Viện Văn học, tiếp tục cuốn thứ V, tập Sơ thảo của Ban Văn sử địa, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1964.
7. Viết chung với Hoàng Ngọc Phách và Kiều Thu Hoạch. Nxb. Văn học, Hà Nội, 1965.
8.  Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1961.
9. Xem Nghiên cứu văn học các số 4-1961; 3-1963; Tạp chí Văn
học các số 4-1964; 10-1964; 11-1964.
10. Do Ưng Linh xuất bản, Huế, 1938.
11. Do Trần Thanh Địch xuất bản, Huế, 1941.
12. Số tháng 7-1963.
13.  Nxb. Phổ thông, Hà Nội, 1963.
14.  Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập V, Sđd.
15. Chẳng hạn bài Hai bài thơ của Miên Thẩm về Cao Bá Quát trên Tạp chí văn học số 6 -
1964. Bài này được nhà thơ Sóng Hồng chú ý, và phần nào đã giúp Sóng Hồng tạo nên tứ thơ trong hai câu đầu bài Đến Gia-các-ta, nhớ Cao Chu Thần của mình:
                         Chu Thần xưa ở nơi đâu,
                  Để cho Miên Thẩm lên lầu không an.
16. Thực ra, Trần Hoàn nói thế nhưng nhìn suốt lại cho đến nay (2004), vẫn chưa thấy có một công trình nghiên cứu hay dịch thuật nào thật dày dặn về Miên Thẩm được công bố, trừ luận án Tiến sĩ của Ngô Thì Đôn mới vài năm gần đây mà tôi có may mắn được làm người phản biện thứ nhất, và một vài tập sách mỏng. Trong khi đó ở miền trước 1975 đã có công trình Phân tích những khuynh hướng tình cảm đạo lý xã hội
trong thi ca Tùng Thiện vương của Ngô Văn Chương dày 422 trang, khổ 16x24, do Phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản năm 1973. Chứng tỏ, trong một cơ chế mở, ngay người nghiên cứu văn hóa cổ cũng có thể tìm ra nhiều “vùng đất” dồi dào hơn để khai thác trong kho di sản của ông cha.
17. Chúng tôi muốn lưu ý đến đoạn thơ sau đây trong bài Lá thư
thành phố:
                   Con nhớ anh nhiều đêm biếng ngủ,
                   Nó khóc làm em cũng khóc theo;
                   Anh gửi về đây manh áo cũ,
                   Đắp cho con đỡ nhớ anh nhiều.
      Ở đây nỗi nhớ chồng của người vợ lính đã được che giấu khéo léo đằng sau lời kể lể về đứa con nhớ bố.
18. Phần viết về Miên thẩm của Trần Thanh Mại mà tôi từng có trong tay nhiều hơn hẳn những gì mà Hồng Diệu nói vừa mới tìm được. Xem bài giới thiệu đầu Trần Thanh
Mại toàn tập, Nxb. Văn học, 2004.
19. Trả lời một bức thư. Tuần báo Văn học, 1960.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?

  • VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.

  • HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).