NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc Chim phương Nam, tạp bút của Trần Bảo Định, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ TP. HCM, 2017).
Ảnh: internet
Không tính 6 tập thơ “thù tạc” bảy tỏ ân nghĩa với quê hương, bạn bè, người thân, Trần Bảo Định (TBĐ) - “nhà văn - không thẻ” mới nhập cuộc làng văn với tập truyện Kiếp Ba Khía năm 2014, nên tôi gọi ông là “nhà văn trẻ”, mặc dù TBĐ sinh năm 1944, tức là đã ở tuổi “xưa nay hiếm”. Điều đáng kể hơn là chỉ mấy năm qua, TBĐ ra sách liên tục, đều do Nxb. Văn hóa - Văn nghệ TP. HCM làm “bà đỡ”. Sau Kiếp Ba Khía (2014), tiếp Đời Bọ Hung (2015) và năm 2017 in liền 2 tập: Phận lìm kìm ra tháng 3, còn Chim phương Nam đang thơm mùi mực… Cuối năm nay, TBĐ còn có Ông già Nam Bộ nhiều chuyện (hai tập - Nxb. Hội Nhà văn).
Nói cho đúng thì cả 4 tập văn xuôi của TBĐ đều đậm đà… mùi “đất phương Nam”. Bạn văn Bích Ngân khi đảm trách Tổng Biên tập Nxb. Văn hóa - Văn nghệ TP. HCM - đã nhận xét về văn xuôi TBĐ:
“…Tác giả sử dụng nhuần nhuyễn ngôn ngữ Nam Bộ một cách dân dã, hài hước, thú vị qua những sự đời, sự người, sự vật… với tính cách riêng, bằng vốn sống tích lũy và sự am hiểu sâu rộng của mình…”.
Còn tôi, qua tập truyện thứ 4 này của TBĐ, càng khẳng định ông xứng danh là “người kể chuyện dân gian hiện đại”. Chúng ta đều biết, nhiều truyện dân gian mượn con vật để nhắc nhở con người. TBĐ thì cả 4 tập truyện đều lấy nhan đề bằng tên con vật; tuy vậy, 3 tập trước, trong nhiều truyện, con vật chỉ là kẻ làm chứng, là “nhân vật” phụ để tác giả gửi gắm ý tưởng của mình; còn Chim phương Nam (CPN), tất cả 27 truyện, “nhân vật” chính đều là… chim! Cuốn sách ghi là “Tạp bút”, nhưng đúng như anh Hàn Tấn Quang (Chủ biên Tạp chí Kiến thức ngày nay) đã viết trong “Thay lời tựa” là những trang viết của TBĐ “không phải truyện mà thành truyện.” Hầu hết, đều đã đăng trên Kiến thức ngày nay; riêng truyện “Bìm bịp tiếng kêu thương”, TBĐ dành riêng cho Sông Hương Số đặc biệt tháng 6/2016. Hàn Tấn Quang hỏi “Vì sao”, TBĐ tủm tỉm cười: “Uống nước nhớ nguồn! Nếu Nguyễn Hoàng không vào đất Thuận Hóa (Đàng Trong) thì chắc gì có người Việt lưu dân vô phương Nam khẩn hoang lập ấp. Và rồi, chim Việt lạc xứ biết cành Nam ở phương nào mà tầm về xây tổ”!
Vậy mà nay, phương Nam với “mũi thuyền ta đó Mũi Cà Mâu” (thơ Xuân Diệu) vẫn đó, nhưng biết bao loài chim không còn nơi xây tổ và đang bên bờ vực tuyệt chủng!
Cả 4 tập truyện, và đặc biệt với CPN, nhà văn TBĐ có lẽ là cây bút lập kỷ lục viết về loài vật trong làng văn Việt Nam. Cũng như nhiều nhà văn khác (như Nguyễn Quang Sáng với “Con mèo Fujita”, Kim Lân với “Con chó xấu xí”, Nguyễn Công Hoan với “Con ngựa già”, Nguyễn Văn Bổng với “Con trâu”…), TBĐ cũng “mượn loài vật” để gửi gắm những triết lý về nhân sinh, thời cuộc, nhưng bằng sự tập trung toàn truyện các loài chim trong CPN và nhiều truyện về nhiều loài vật khác trong 3 cuốn sách trước, TBĐ đã liên tục phát tín hiệu S.O.S. kêu cứu cho môi trường sinh thái đang bị con người hủy hoại với một tốc độ khủng khiếp, đến mức mà nhà văn từng đoạt giải Nobel Mạc Ngôn đã phải kêu lên: “Văn học của chúng ta kỳ thực gánh vác trách nhiệm to lớn, chính là trách nhiệm cứu lấy trái đất, cứu lấy nhân loại…” vì “Những ngày tháng tốt đẹp của nhân loại đã không còn nhiều nữa!” (Dẫn theo sách “Rừng khô, suối cạn, biển độc… và văn chương” của Nguyễn Thị Tịnh Thy). Như thế, có thể nói, TBĐ là một cây bút có đóng góp rất đặc sắc trong dòng “văn học sinh thái” đang ngày càng được chú ý; và do đó, các tác phẩm của ông, ngoài nét riêng là thể hiện cuộc sống vùng đất Nam Bộ một cách “dân dã, hài hước” bằng vốn tích lũy suốt cả cuộc đời sống giữa lòng dân vùng đất châu thổ đồng bằng sông Cửu Long, đã vươn tới một chiều kích rộng lớn hơn và rất thời sự nữa.
Nhiều truyện trong CPN có cái kết làm chúng ta đau lòng, khi những con chim là bạn thân thiết của con người bị đưa lên bàn nhậu. Như con le le trở thành bạn của Đực Nụi, khi anh về cất chòi tại ngã ba Vàm Dưng, thậm chí nó làm nhiệm vụ cảnh giới, báo trước khi sắp có lính đi ruồng bố thì bầy le le rối đội hình bay về hướng chòi của anh; nhưng rồi con người “nhằm thỏa mãn ham muốn dục vọng… ngày nào le le cũng bị bắt bằng bẫy lưới do bọn “le le mồi”…”. Và khi nghe hung tin cả bầy le le bị hốt trọn lên xuồng, mặc dù le le trống tinh khôn dùng kế “điệu hổ ly sơn” lao mình trước mũi xuồng hòng cứu vợ con, “Đực Nụi ngồi uống hơn lít rượu một mình say bí tử” rồi thốt kêu lên: “Ác lai ác báo!” (Truyện “Le le, nỗi đau của mẹ”).
Trong truyện “Bìm bịp tiếng kêu thương”, chúng ta gặp những trang văn rưng rưng kỷ niệm tuổi thơ của chính tác giả nơi quê ngoại: “Đầu hạ, bìm bịp đẻ. Đầu thu, cả vợ lẫn chồng cùng gánh vác việc nuôi con, nó chẳng ly thân ly dị bao giờ. Mái nhường miếng mồi ngon cho chồng cho con… Tôi đã rình coi bữa ăn chiều sum họp của “gia đình bìm bịp” ở đám biền thí thời bom đạn…”; nhưng rồi “chỉ một lời đồn thổi bá vơ, người săn đuổi và tận tuyệt nòi bìm bịp, ngâm rượu tráng dương bổ thận…” nên khi tác giả “trở về khu vườn nhà ngoại sau bao năm đi xa… chỉ nghe tiếng lá rơi trên thềm nhà cũ. Cầu ao, bến nước, bãi biển… còn nằm trơ đó, bìm bịp thì tuyệt chủng rồi!”
Có lẽ không phải ngẫu nhiên TBĐ lấy tên người vợ hiền Lê Kim Phượng ghi dưới loạt truyện CPN khi đăng trên “Kiến thức ngày nay”. Thực ra, cả tập truyện là tiếng kêu của Đất Mẹ nhẫn nhục và bao dung như TBĐ đã miêu tả chuyện “má con cô Hai” bị giặc giết cùng con sáo trâu biết nói tiếng người thời Thủ khoa Huân khởi nghĩa (truyện “Miếu sáo trâu”). Trong CPN, rất nhiều lần người mẹ phải lên tiếng kêu cứu cho đàn chim, cũng là lời dạy nhân nghĩa đối với tuổi thơ còn dại dột. “Tôi bị má đánh đòn khi bắn thằng chái rớt bến sông. Sao con cướp đi sự sống của nó? Rồi ai cướp sự sống của con?...” (Truyện “Cánh chim thằng chài” - tức là chim bói cá).
Một cách khái quát hơn, trong truyện “Cú Mèo - chúa tể đêm”, TBĐ đã viết: “…Trời sinh muôn loài chắc là chẳng phải để giỡn chơi. Nếu chẳng phải để giỡn chơi, chắc trời ban mỗi loài có một giá trị về sinh thái và, nó cũng chẳng thể tách rời cả hệ sinh thái trong trời đất. Người “nhân danh” sự sống của mình, thay đổi hệ sinh thái thì chính sự thay đổi ấy sẽ từng bước cướp đi sự sống con người. Tàn sát chim cú mèo, vô tình người đứng về phía chuột, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho giống nòi chuột nhanh chóng sinh sôi nẩy nở…”.
Tuy không phải là chủ đề của cuốn sách, nhưng nhân nhắc đến chim Cú Mèo, tưởng cũng nên gỡ mối oan, đồng thời là sự mê tín cả tin của không ít người rằng tiếng cú báo điềm gở, chết chóc. Hãy nghe TBĐ thuật lại lời của “bác Hai ở Cần Thơ”: “Ở đâu đêm tối có chuột, có cú mèo… Tiếng nó kêu giữa đêm trường mù mù tăm tăm đó là tiếng gọi bạn tình… Tùy bóng đêm và tùy tình huống săn bắt con mồi mà nó “rung cây nhát khỉ” qua tiếng kêu phát ra nhiều loại âm thanh: Rit, hét, gầm gừ… Con mồi nghe âm thanh cú kêu khiếp sợ rời chỗ núp, chạy trốn. Cú chờ có vậy và con mồi nạp mạng!”
Bạn hãy tin lời “bác Hai” (cũng là lời TBĐ), khi ông “viết như là một liệu pháp để vượt qua những cơn đau của chứng bệnh nan y, quái ác…“vét cạn lòng, nạo khô dạ” thành câu chữ “vàng ròng Nam Bộ” …” (Hàn Tấn Quang) không chỉ mang đậm triết lý nhân sinh mà nhiều trang miêu tả chi tiết các loài chim, từ màu lông ở khóe mắt, hình thù các ngón chân… cho đến điệu hót gọi bạn tình, một cách tỉ mỉ, sáng rõ và sinh động, có lẽ các thầy giáo dạy sinh vật cũng… chào thua!
Bây giờ, xin nhắc thêm một câu nữa của Hàn Tấn Quang: “Hãy lần giở từng trang sách và đọc đi bạn…”.
N.K.P
(TCSH345/11-2017)
PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.
...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...
…Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…
NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)
Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.
VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)
NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.
HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.
LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.
NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.
PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.
Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.
PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.
ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.
NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".
HOÀNG KIM DUNG (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)
PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...