Tôi lại về thăm lại Triều Dương

09:20 07/10/2009
HOÀNG CÁTVới riêng tôi, thì những cái địa danh bình thường, thuộc nông thôn vùng sâu, vùng xa của tỉnh Thừa Thiên Huế như: Triều Dương, Cao Xá, Quảng Thái, Phong Chương, Phù Lai, An Lỗ, Đồng Lâm, Phong Sơn, xóm Khoai, xóm Mắc vv… từ lâu đã trở thành một phần máu thịt của tâm hồn mình, của ký ức mình; chưa bao giờ - và sẽ không bao giờ - tôi nguôi quên cho được.

Nhà thơ Hoàng Cát - Ảnh: evan.vnexpress.net

Bốn mươi hai năm trước, mà nói cho thật chính xác là cuối xuân, đầu hè năm 1967của thế kỷ 20, tôi - với tư cách là một người lính kỹ thuật vũ khí của quân đội Giải phóng - đã được Tỉnh đội Thừa Thiên - Huế điều động biệt phái về công tác lẻ tại các vùng đất nói trên; cho dù tôi chưa bao giờ là đoàn viên hay đảng viên cả! Nhiệm vụ của tôi là cùng với anh chị em du kích địa phương lùng tìm, rồi hướng dẫn cho họ tháo dỡ các quả đạn pháo ca-nông và những quả bom của Mỹ bắn ra hoặc ném xuống các cánh đồng, các xóm làng - mà chưa nổ - để lấy thuốc súng, đem về làm ra những quả mìn cờ - lây - mo tự tạo, những trái lựu đạn thủ công, hay những quả mìn “đạp lôi”, hết sức công dụng và lợi hại, để cho  du kích địa phương chống lại các cuộc càn quét của địch.

Đó là một công việc cực kỳ khó khăn, luôn luôn căng thẳng và vô cùng nguy hiểm đến tính mạng của những người trong cuộc như chúng tôi. Do vậy, công việc ấy được giữ bí mật nghiêm ngặt và tuyệt đối tối đa; chỉ duy nhất những người thật sự có trách nhiệm mới được biết mà thôi. Và, cũng vì vậy mà những người đã trực tiếp giúp đỡ , đã tận tâm nuôi giấu tôi trong những ngày tháng đó - họ chính là những ÂN NHÂN của tôi, ân nhân suốt đời, ân nhân mãi mãi… Trong số ấy, có những người chị - như chị Thẻo, chị Cháu Nghiêu ở thôn Triều Dương, xã Phong Hiền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Do vậy, ngay từ khi đất nước mới kết thúc chiến tranh và thống nhất năm 1975, thì niềm ao ước cồn cào của tôi là được trở lại mảnh đất Triều Dương, Bến Nẩy, Cao Xá, Quảng Thái, Phong Chương…để bày tỏ với bà con cô bác nơi đây lòng tri ân vô hạn của mình, đối với những người đã một thời che chở cho tôi giữa những ngày tháng gian nan và hiểm nguy có một không hai ấy trong cuộc đời công tác đơn độc của tôi…

Và, mùa hè năm 2009 này, đây là lần thứ ba, tôi lại trở về thăm lại mảnh đất Triều Dương thân thương của lòng tôi ấy.

Lần đầu tiên, tôi một mình, với cái chân giả nặng nề đã “một bước đi lên, nửa bước giật lùi” trên các cồn cát mênh mông nắng lửa của Thừa Thiên Huế là vào mùa hè năm 2001, để được trở lại thăm mảnh đất một thời ngập tràn lửa đạn chiến tranh, xiết đỗi tàn khốc, nhưng cũng vô cùng kiên gan và oanh liệt đó. Bấy giờ, Triều Dương coi như bị xã hội bỏ quên hoàn toàn: không có lấy - dù là chỉ một con đường đất sơ sài nhất - để có thể dễ dàng đi bộ vào đó cho được. Tôi đau buồn và giận cho cái cung cách ứng xử ấy của một số người lãnh đạo của chúng ta quá! Bèn viết ngay một bài phóng sự rất ngắn và rất “nóng”, gửi đăng tức thì trên trang Một các báo “Đại đoàn kết”, “Thừa Thiên Huế”, tạp chí “Sông Hương” lúc bấy giờ. Đại ý, tôi phê phán sự quan liêu của những người lãnh đạo các cấp từ Trung ương đến địa phương đã “bỏ quên” một cái làng anh hùng trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước trước đây chưa lâu, để cho đời sống nhân dân Triều Dương nghèo khổ, phải sống cô lập, tách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài… Tôi không thể nói hết nỗi thất vọng, niềm đau xót của lòng mình trước một thực trạng dửng dưng từ trên xuống dưới đối với thôn Triều Dương ngày đó!

Lần thứ hai, tôi lại trở về thăm mảnh đất thân thương này, là mùa hè năm 2007.

Cũng giống như lần đầu, lần này tôi vẫn phải nhiều lần vừa đi vừa hỏi đường về Triều Dương, vì cái xóm nhỏ gan góc và “ương ngạnh” nổi tiếng trong thời chiến tranh ấy quá cô độc và heo hút giữa sa mạc Thừa Thiên Huế. Tuy nhiên, lần này đã có khác hơn lần đầu một cách rõ rệt - là con đường mòn xuyên qua trảng cát mênh mông kia đã được bồi đất, rải đá khá tươm tất; ô tô loại vừa có thể đi lại thoải mái và vào hẳn tận trong thôn Triều Dương!... Tôi ngầm hiểu rằng, bằng ngòi bút chân chính của mình, tôi đã góp một phần rất nhỏ nhưng xứng đáng, cho lối nẻo đi về Triều Dương từ nay vĩnh viễn có một con đường thênh thang tử tế. Từ nay, những người đàn bà bụng mang dạ chửa đến ngày sinh nở, hay những người ốm đau bất chợt trong cái xóm nhỏ Triều Dương ấy, khỏi phải lo lội bộ hàng cây số trên trảng cát sục lầy quái ác kia nữa, mới tới được đường cái quan mà đi bệnh viện!... Dù chưa thật sự bằng người, nhưng Triều Dương của lòng tôi cũng đã dần thay da đổi thịt. Tự nhiên, hai hàng nước mắt tôi lặng lẽ dâng trào - không cách gì tôi có thể ghìm nén nỗi mừng cho được…

Và lần này, lần thứ ba, mùa hè 2009, tôi lại hăm hở và quyết tâm dẫn cả người vợ, là dân Hà Nội liễu yếu đào tơ chính cống, và cũng đã ngoài 60 tuổi của mình, về cùng tôi thăm lại Triều Dương.

Tôi vốn lơ ngơ và rất kém cỏi trong sự nhớ đường. Cho nên, không thể nói hết sự vất vả và mệt nhọc giữa một buổi gần trưa, trời nắng như đổ lửa, mà chúng tôi cứ lạc đi lạc lại mãi giữa cái sa mạc trắng xoá như vôi ấy. Tuy nhiên, khác với hai lần trước, lần này chúng tôi lúc nào cũng được ngồi chễm chệ trên xe máy, và cũng chỉ lạc trên các con đường rải đá mà thôi, chứ không phải lạc trên bãi cát lội bộ cực nhục như trước đây nữa. Do vậy, vợ chồng già chúng tôi vẫn có thể vui đùa, trò chuyện thoải mái với nhau và với những người bất chợt gặp gỡ bên đường.

Trước khi tìm được đúng con đường vào thôn Triều Dương, chúng tôi phải dừng lại nghỉ, mua một chai nước Lavi ướp lạnh, loại lít rưỡi, tại một cái quán nghèo và cô lẻ, ở một ngã ba đường. Vợ tôi đoán, ít nhất họ phải lấy mười lăm hay hai mươi ngàn! Ai ngờ, tất cả chỉ có sáu ngàn bạc… Ôi, những người dân của mảnh đất nghèo khó này - thời nào, và nơi đâu họ cũng luôn luôn là những con người quá ư lương thiện, quá ư thật thà!!!

Cuối cùng, với chiếc xe máy cực tốt, mượn được của một người quen ở Huế, chúng tôi cũng vào đến tận nhà những gia đình ở Triều Dương đã nuôi giấu tôi năm xưa. Hoá ra, con đường vào Triều Dương bây giờ đã là một con đường thênh thang, thảm nhựa đàng hoàng, như bất cứ một con đường giao thông chính thức nào khác, trên Tổ quốc thân yêu của chúng ta…

Giờ đây, thôn Triều Dương bé nhỏ của tôi, tất cả đã nhà nhà xây gạch, lợp ngói, sân xi măng sạch sẽ, khang trang. Cái xóm nhỏ “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” ấy, bây giờ cây trái, vườn tược mướt xanh; gà vịt từng đàn; trâu bò nhà nào cũng có. Có nhà nuôi được cả một đàn trâu nho nhỏ - như gia đình cháu Văn Thành, con trai bà Thẻo. Mà, bà Thẻo chính là người chị kính thương đã nuôi giấu tôi trong những năm tháng không thể nào quên được ấy… Ngôi nhà của “chị tôi”, do tự tay cháu Văn Thành làm lụng và xây cất lên đó - nó rất đẹp, cao ráo, rộng rãi, thoáng mát đến không ngờ! Nền nhà được lát gạch men cao cấp, sạch như lau như ly, chả khác gì những nền nhà sang trọng ở các thành phố lớn! Quạt cây, quạt bàn, quạt trần thi nhau quay vù vù - tiêu tan hết nóng trưa hè.

Thế là, một phần nhờ có con đường giao thông huyết mạch nối liền Triều Dương với xã hội cộng đồng rộng lớn - mà giờ đây xóm nhỏ ấy đã văn minh, thanh thoát lên rất nhiều. Nhiều gia đình đã có khu nhà tắm và toa-lét tự hoại, đã có đầu máy xem đĩa DVD; thanh niên trong làng, ai cũng có điện thoại di động. Và như một lẽ dĩ nhiên, xe máy, ti vi, điện thoại cố định thì nhà nào cũng có…

Và, y như thể Trời Đất bày đặt ra một cái cảnh để cho chúng tôi hiểu sâu sắc hơn, thấm thía hơn về tư chất và tính cách đàng hoàng, tử tế của những người dân bình thường nơi đây. Xe máy tôi vừa ra đến cổng làng lúc quay về Huế, thì bỗng dưng xẹp hết lốp sau! Sau một lúc có phần hốt hoảng, vì giữa nơi sa mạc hẻo lánh này, thì tìm đâu ra thợ sửa xe bây giờ - tôi gọi di động cho cháu Văn Thành. Lập tức cháu chạy ra với chúng tôi. Rồi cháu lại vội vã chạy về và cầm ra một cái bơm tay. Cháu bảo tôi:

- Cứ bơm tạm, chạy thử coi thế nào đã chú ạ! Cháu sẽ dẫn cô chú sang làng bên cạnh, cách đây hơn một cây số sẽ có thợ sửa xe…

Bên con đường mới rải nhựa vào làng Triều Dương, trong lùm cây bạch đàn lưa thưa nơi sa mạc đầy nắng lúc đó, có một cái quán tạm bợ, vừa sửa xe máy, vừa bán hàng giải khát và một vài mặt hàng lặt vặt khác. Tôi mừng đến run người, nhưng đồng thời cũng lo đến nóng cả ruột. Bởi vì, theo thói thường, giữa nơi đồng không mông quạnh này, lại trong hoàn cảnh giữa trưa nắng nôi ngặt nghèo như thế, người thợ kia có thể “chém” khách sửa xe xa lạ như chúng tôi bao nhiêu là tuỳ ý họ!!! Mà đồng tiền trong túi tôi thì nó “khiêm tốn” đến vô cùng… Nhưng ha ha!!!... chỉ hết có năm ngàn “bọ” thôi!!!... Tôi không tin, cứ phải hỏi đi hỏi lại coi thử năm ngàn hay năm chục ngàn (!)... Cảm kích trước tính cách bình dị mà hết sức cao đẹp đó của người thanh niên gầy nhòm sửa xe ấy, tôi lặng lẽ đưa vào tận túi anh cả tờ mười ngàn nhàu nhĩ của mình - với lời cảm ơn chân thành và trìu mến nhất của lòng tôi…

Lên lại xe máy rồi, vi vu trên con đường trơn tru để trở lại Huế rồi, người vợ già của tôi vẫn như chưa tin hẳn vào những điều vừa diễn ra ấy. “Nàng” cứ tấm tắc mãi:

- Sao mà người ở đây lại hiền lành và tử tế đến thế kia nhỉ!!!

Tôi chỉ có thể nói với bà xã của mình:

- Chính nhờ có những con người, những tính cách, những mảnh đất như thế này mà anh còn sống được đến hôm nay, và trở thành một nhà thơ đấy, em ạ!

Hà Nội, 17-7-2009
H.C
(247/09-09)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • LÊ QUANG THÁI

    Ngày sinh, nơi sinh, ngày mất, nơi mất, nơi an táng, nơi cát táng là những mốc thời gian quan trọng, đáng nhớ của đời người và con cháu vì dân gian coi đó là việc thể hiện hiếu đạo đối với người đã mất, với tổ tiên, ông bà: Sống nhà thác mồ.

  • (SHO). Nhiều ngày qua, báo chí và cộng đồng dân cư mạng đã bày tỏ lòng kính yêu Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua những tin tức, đề xuất về việc lựa chọn đường đặt tên Đại tướng Võ Nguyên Giáp

  • (SHO). Bộ VHTTDL đã có công văn gửi UBND các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Bình Phước về việc phối hợp hoàn thiện hồ sơ di tích quốc gia đặc biệt Hệ thống di tích đường Hồ Chí Minh.

  • NGUYỄN VĂN DẬT 

    Quê hương là chùm khế ngọt
    Cho con trèo hái mỗi ngày.

                       (Đỗ Trung Quân)

  • KỶ NIỆM 10 NĂM THÀNH LẬP CẢNG CHÂN MÂY

    NGUYỄN HỮU THỌ
    (Chủ tịch, Giám đốc Công ty TNHH Một Thành Viên Cảng Chân Mây)

  • LÊ XUÂN THÔNG 

    Vai trò của nhà Nguyễn với Phật giáo Ngũ Hành Sơn
    Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng) vốn đã là một trung tâm Phật giáo của Việt Nam thời chúa Nguyễn, nơi hình thành sớm các đạo tràng với sự tu chứng của các bậc danh sư, và đặc biệt nhận được sự quan tâm hỗ trợ của triều đình.

  • PHAN THUẬN AN

    Một sự tình cờ đã xảy ra trong lịch sử cận đại Việt Nam: có hai tướng Ngô Văn Sở sống cùng một thời kỳ. Xin tạm gọi nhân vật thứ nhất là tướng Ngô Văn Sở ấy, và nhân vật thứ hai là danh tướng Ngô Văn Sở triều Tây Sơn.

  • NGUYỄN NHÃ TIÊN
                         Tùy bút

    Đi trong tiết trời ngập tràn gió lạnh mùa xuân Côn Sơn, con đường hun hút xuyên giữa cánh rừng thông thoảng nhẹ từng làn mây khói mỏng mảnh bay lượn lờ, như dẫn dắt con người vào một thế giới xa xăm thanh vắng.

  • NGUYỄN VĂN QUẢNG - ĐÀO LÝ

    Thành Hóa Châu là một tòa thành có vai trò rất lớn trong lịch sử, chính vì thế nó đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu từ rất sớm của các sử gia.

  • NHỤY NGUYÊN

    Làng cổ Phước Tích quyến rũ với phong cảnh nhà vườn xanh mát. Cây thị gần ngàn năm tuổi tỏa bóng bên ngôi miếu cổ là một phần hồn vía của làng cùng nhiều mẩu chuyện thú vị về những di chỉ Chăm.

  • MẠNH TIẾN

    Rời Mèo Vạc về Đồng Văn, ngồi sau lưng anh xe ôm người Hmông, tôi vượt Mã Pì Lèng trong một sáng mùa hè mưa rả rích. Cung đường núi hiểm trở, liên tục gấp ngược khủy tay. Cheo leo. Một bên thăm thẳm đá, cao vun vút. Một bên hun hút sâu, những thung lũng.

  • NGUYỄN VĂN DẬT

    Theo gia phả của thợ đúc xứ Đàng Trong để lại thì từ thời Lê Trịnh mà thợ đúc xứ Kinh Bắc ra đi theo Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa lập nghiệp vì nhiều lý do mà trong gia phả nguyên bản bằng chữ Hán được soạn từ thời Cảnh Hưng (1740-1786), rồi tục soạn các đời tiếp Gia Long, Tự Đức đã ghi như sau:

  • LÊ TRÍ DŨNG

    Tôi vẫn phải thưa với bạn đọc rằng suy nghĩ dọc đường thì bao giờ cũng trục trà trục trặc, lục cà lục cục, lủng cà lủng củng và nó cũng gập ghềnh theo nhịp bánh xe lăn, nhất là lúc qua ổ trâu, ổ gà...

  • NGUYỄN QUANG HÀ - NGUYỄN VĂN DŨNG

    Muốn nhìn bức tranh thiên nhiên dựng khung cảnh hoành tráng của Bạch Mã, phải lùi đủ độ xa mới thật chiêm ngưỡng hết dáng vẻ uy nghi của nó.

  • NGUYỄN QUANG LẬP

    Thế rồi Ăm Hươn chống gối đứng dậy, lảo đảo tiến về vách trái nhà sàn đan dày bằng tre ca lay. Nơi đó có cái ca dóc như một búp măng ám khói, đang treo rủ ngược xuống, Ăm Hươn tiến tới gần, dướn lên, với tay lấy ca dóc nhưng không được. Lại dướn lên.. lại không được.

  • NHẤT LÂM 

    Trời đã sang thu, ngồi bên sông Héc Gieng chảy qua thị trấn Na Rì lộng gió mà uống rượu về đêm thì thật quá thú. Khúc sông này hẹp, bãi cát vàng hun dưới trăng, và bên kia sông là dãy núi trùng điệp chạy mãi tận Cao Bằng.

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG

    Các dân tộc thiểu số anh em sống nép mình bên những dãy Trường Sơn hùng vĩ ở Thừa Thiên Huế và Quảng Trị, có rất nhiều nét văn hóa độc đáo và riêng biệt. Trong đó có nét đẹp của nghệ thuật làm đẹp mà những chủ nhân của nó hiện ít nhiều còn giữ lại hoặc hồi tưởng qua kí ức.

  • LÊ QUANG THÁI

    Chi thứ 5 trong 12 chi là THÌN, tượng cho con Rồng, chữ Hán viết LONG (龍), còn đọc là “thần”, có nghĩa lý như chữ “Thần” (宸), dị âm đồng nghĩa. Chữ này còn có nghĩa là cung vua. Cung điện sơn màu đỏ là vì thế.

  • VŨ TRƯỜNG AN

    Xưa nay, biểu tượng rồng thường được ứng với những bậc thiên tử, còn những người dân bình thường, chỉ có thể ví với thảo cỏ hay là hàng tôm tép, con bống, con cò..., ví mình với rồng dễ phạm tội “khi quân”.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG (Ghi chép)

    Ngày 02 tháng 5 năm 2011, Ban tổ chức Trại sáng tác văn học Quy Nhơn (do hai tạp chí Văn nghệ Quân đội và Sông Hương đồng tổ chức dưới sự tài trợ của Binh đoàn 15) đã tổ chức một chuyến đi thực tế tại Đức Cơ-Gia Lai, nơi có 3 công ty lớn của Binh đoàn đang làm ăn tại đó. Nhân tiện, tôi rẽ ngang vào Plei-Ku, nơi có 3 người đồng nghiệp cũng là học trò của tôi.